Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799
by Peter McPhee
Chương 4: Thời kỳ tái xây dựng 1789-1791
Đại biểu cử tri đoàn hay còn gọi
là Hội Đồng Quốc Gia thời 1789-1791 là quốc hội lớn nhất trong lịch sử nước Pháp,
với hơn 1200 thành viên bao gồm các tầng lớp Giáo Sĩ, Quý Tộc và thường dân trước
đó đã tập họp trong Đại Hội Đại Biểu vào
tháng Năm 1789. Trong 2 năm kế tiếp, các thành viên đại biểu đã lao mình vào
nhiệm vụ tái tạo mọi khía cạnh của đời sống công chúng bằng cả nhiệt huyết lạ
thường. Công việc của 31 uỷ ban trong Hội
Đồng đã có phần thuận lợi nhờ sự sẵn sàng cộng tác của phần lớn các quý tộc
mang danh Ái Quốc, nhờ mùa màng 1789 và
1790 bội thu, và trên hết nhờ thiện chí bao la của quần chúng. Tuy nhiên, cái bục
diễn thuyết và các uỷ ban của Hội Đồng lại do 1 phần 10 số đại biểu khống chế và
người ta cũng có thể cho rằng những mầm mống về những nghi ngờ về cuộc Cách Mạng
ở phía Nam đã được gieo trồng qua sự thống trị của Hội Đồng ngay từ lúc khởi đầu
bởi những người thuộc miền Bắc.
Sự tái tạo nước Pháp đặt căn bản
trên niềm tin vào nhân dạng chung của công dân Pháp bất kể nguồn gốc địa lý hay
xã hội. Đây là sự thay đổi nền tảng trong mối quan hệ giữa các vùng miền, tỉnh
lỵ và quyền công dân. Trong mỗi khía cạnh của đời sống công cộng, bao gồm hành
pháp, tư pháp, các lực lượng vũ trang, Giáo Hội, an ninh trật tự, những truyền
thống về các quyền tập thể, sự đề cử và thứ bậc xã hội phải nhường chỗ cho sự bình
đẳng dân sự, trách nhiệm và các cuộc bầu phiếu trong một cấu trúc quốc gia. Cơ
chế của chế độ cũ mang đặc tính riêng qua việc thừa nhận sự đa dạng vùng miền lạ
thường được kiểm soát bởi một mạng lưới những người được hoàng gia đề cử. Việc đó
lúc này đã bị đảo ngược: ở mọi cấp độ mà các viên chức được lựa chọn và những cơ
cấu nơi họ làm việc đều giống nhau ở khắp nơi.
41,000 xã ấp mới, hầu hết được tạo
thành dưới nền tảng là các giáo xứ của
chế độ cũ, được đặt căn bản trên cái cấu trúc hành chánh của tổng, quận và tỉnh.
83 tỉnh, được loan báo vào tháng Hai 1790, được tạo ra để làm thuận tiện khả năng
tiếp cận của ban quản trị hành chánh, vì mỗi thủ phủ của vùng sẽ không cách quá một ngày đường di hành cho bất cứ làng
xã nào. Sự cấu tạo bản đồ mới của Pháp này
là tác phẩm của giới tinh hoa thành phố với viễn ảnh nổi bật về cơ cấu không
gian và sự phân cấp thể chế. Nó được thiết kế để mang tính thực tế đến 2 trong
số các mục đích then chốt của họ: để đất nước tái sinh trong khi củng cố sự thống
nhất. Vẫn luôn luôn có một sự phân cách địa dư rõ rệt của từng tỉnh, nhưng nó cũng đại diện một chiến
thắng quan trọng của một đất nước mới trên sự nhận biết vùng miền hồi sinh được
biểu hiện kể từ 1787. Tên tuổi chính của
chúng, được đặt từ sông suối, núi non và những sắc thái thiên nhiên khác làm giảm
thiểu những tuyên bố đối với những sự trung thành chủng tộc và vùng miền khác: Vùng Basque sẽ trở thành tỉnh Basses-Pyrénées,
không còn là “bang Basque”, cũng sẽ không còn bất cứ sự công nhận về cơ cấu riêng
của bất cứ vùng miền nào chẳng hạn như Brittany hay Languedoc.
Hội Đồng cũng quan tâm đến việc tăng
tốc “từ trên cao” về sự trùng hợp ngẫu nhiên của một đất nước mới của các công dân Pháp với sự dùng ngôn ngữ Pháp.
Yêu sách của Abbé Grégoire năm 1790 được
điều tiết cho các nhà làm luật đã dự đoán sai lầm rằng một sự tiện lợi trong việc
dùng tiếng Pháp là điều thiết yếu để làm
một người yêu nước. Chỉ có 15 tỉnh với khoảng 3 triệu dân được coi như hoàn toàn nói tiếng Pháp. Trong vùng
Lot-et-Garonne nói tiếng Gascon ở vùng Tây Nam, các linh mục than vãn về việc những nông dân đã ngủ gật trong lúc các nghị quyết của Hội Đồng
được đọc lên, bởi vì họ chẳng hiểu lấy một chữ, cho dù nghị quyết đã được đọc lớn
tiếng và và được giảo thích rõ ràng. Hậu quả là các buổi hội họp kế tiếp được
khuyến khích phiên dịch các nghị quyết sang ngôn ngữ địa phương và trên nhiều
phần nước Pháp, những yếu tố mới về đời sống chính trị được đồng hóa qua trung
gian phiên dịch.
Bản tuyên ngôn về (nam) nhân quyền
đã đề ra lời tuyên hứa rằng từ nay trở đi mọi công dân sẽ chia xẻ mọi quyền hạn
đồng đều về tự do của lý trí và sự thực thi bề ngoài của niềm tin. Vào cuối năm
1789, các tín đồ Tin Lành được ban cấp quyền công dân đầy đủ và tháng Giêng năm sau, cho cả dân Do Thái tại
Bordeaux và Avignon (với 374 phiếu thuận và 280 phiếu chống). Tuy nhiên, Hội Đồng
đã do dự vì có sự chống đối người Do Thái của các đại biểu đến từ Alsace như
Jean-Franҫois Reubell của vùng Colmar, người chống lại quyền công dân cho dân
Do Thái vùng phía Đông (nhưng không chống vùng phía Nam) cũng mạnh mẽ như khi ông
ta vận động cho quyền lợi của dân da màu. Điều này được một người ở phía Đông
thuộc nhóm Do Thái Ashkenazim nhắc lại ngay trong tháng Giêng 1790:
“Vì công lý và lợi ích, nước
Pháp phải ban cấp cho họ các quyền lợi của công dân vì nhà cửa gia đình họ sống
tại vương quốc này, và khi họ sống tại đây như các thần dân của vua, vì họ phục vụ
quê hương qua mọi phương tiện ở trong tay họ, vì họ cộng tác vào sự bảo
tồn đời sống công cộng giống như tất cả mọi công dân khác của đất nước, không
phụ thuộc vào các loại thuế má tuỳ tiện áp đặt nặng nề từ những bất công, thành
kiến cổ xưa được chế độ cũ ủng hộ đã tồn đọng từ lâu trong đầu họ. Họ nói rằng
chỉ có thể có 2 loại người trong một quốc gia: công dân và người ngoại quốc.
Khi chứng thực rằng chúng tôi không phải là người ngoại quốc thì điều đó chứng
tỏ chúng tôi là công dân.”
Chỉ đến những buổi họp cuối cùng
của Hội Đồng Quốc Gia vào tháng 9 năm 1791 thì dân Do Thái phía Đông mới được
ban cấp quyền bình đẳng đầy đủ và có thể đứng ra bầu cử ứng cử.
Sự phức tạp của các toà án hoàng
gia, quý tộc và giáo hội với những biến thể vùng miền địa phương đã được thay
thế bằng một hệ thống quốc gia được thận
trọng làm cho dễ tới gần hơn, nhân đạo và bình đẳng hơn. Đặc biệt, sự giới thiệu
các thẩm phán trị an được bầu chọn tại mỗi tổng được rộng rãi phổ biến vì sự
cung cấp toà án thì rẻ và dễ tiếp cận. Thí dụ, hàng loạt các tội phạm tử hình đã
giảm thiểu tối đa, và vì thế, những người phạm tội sẽ bị trừng phạt bằng những
máy móc không gây đau đớn được cổ võ bởi Dr Joseph Guillotin, chủ tịch uỷ ban sức
khoẻ của Hội Đồng. Tự do cá nhân cũng được
phỏng đoán có hiệu lực với nghề làm điếm: vào tháng 7 1791, các quy định mới của
thành phố đã loại bỏ tất cả những liên quan tới ngành đĩ đìếm và các chính sách
về nó. Như vậy, trong khi nhiều phụ nữ thoát khỏi những chế ngự áp đặt của các nhà
trừng giới tôn giáo mà họ bị gửi đến dưới chế độ cũ, đồng thời điều đó cũng có
thể hiểu rằng nghề đĩ điếm và những hậu
quả bên lề của nó là sự chọn lựa và trách nhiệm cá nhân. Như vậy, sự tự do đạt
được vào năm 1789 là một con dao hai lưỡi trong khi áp dụng vào thực hành.
Các đơn vị Vệ binh Quốc Gia của
những công dân tích cực ở tại mỗi xã ấp tự chọn lấy người chỉ huy họ. Tuy nhiên,
trong khi những chức vụ sĩ quan trong các lực lương vũ trang được mở rộng cho
giới bên ngoài quý tộc, Hội Đồng lại gây ngưng trệ trong việc áp dụng chủ quyền
phổ biến vào sự bầu chọn của họ. Lục quân và hải quân bị thiệt hại vì sự xung đột nội bộ giữa các sĩ quan quý tộc và
đám binh lính trong việc giành quyền kiểm soát các quỹ trung đoàn và vai trò của
quân đội trong việc trấn áp những phản đối dân sự. Đã có những cuộc nổi loạn
nghiêm trọng trong các đoàn tàu thuyền tại Toulon vào tháng 12 năm 1789 và
Brest tháng 9 năm 1790. Một cuộc nổi loạn trong trại lính tại Nancy trong tháng
8 năm 1790 đã bị viên tướng chỉ huy Bouillé, một thân thuộc bà con của tướng tổng
tư lệnh quân đội Lafayette, đàn áp đẫm máu. Hội Đồng đã công nhận hành động của
Bouillé. Đối với Elysée Loustallot tác giả cuốn Les Révolutions de Paris, người
đã cảm thấy tuyệt vọng vì những bạo động cứ tiếp diễn từ tháng Bẩy 1789, các
tin tức về cuộc tàn sát thật không thể tha thứ:
“Làm sao tôi có thể kể ra với một tâm trạng nặng nề? Làm sao tôi có thể
phản ánh lại khi cảm giác tôi bị xé nát trong tuyệt vọng? Tôi đã nhìn thấy hết,
những thân người rải rác quanh đường phố Nancy. Lũ ác quỷ hãy đợi đấy, báo
chí khám phá mọi tội ác và xua tan đi mọi
sai trái sẽ tước đoạt đi niềm vui và sức
mạnh của tụi mày Sẽ ngọt ngào biết bao nếu
đó là nạn nhân cuối cùng của tụi bay.”
Loustallot qua đời sau đó không lâu
ở tuổi 29. Bài điếu văn đọc trong tang lễ của anh do Camille Desmoulins, một nhà
báo cách mạng nổi danh khác đọc lên.
Hội Đồng Quốc Gia đã phải giải
quyết sự cấp thiết về cải cách căn bản trong 3 lãnh vực chính: cải cách tài chánh
để thực thi lời cam kết của Hội Đồng đối với nguyên tắc thuế má đồng nhất và cân
đối, cải cách hành chính để thiết lập việc thực hiện chủ quyền phổ biến trong
phạm vi các cơ cấu được cải tổ, và các biện pháp để giải quyết những mơ hồ liên
quan đến thể chế phong kiến trong phạm vi pháp luật tháng Tám.
Hội Đồng thừa kế sự phá sản của
chế độ quân chủ, lại còn trầm trọng hơn vì việc quần chúng từ chối đóng thuế, nên
đã phải thực thi nhiều biện pháp để đối phó với cuộc khủng hoảng này. Khắp nơi trong nước, người dân đã đáp lại lời
kêu gọi hãy cộng tác lòng yêu nước và quyên góp. Trong tháng 11-1789, đất đai của Giáo Hội được
quốc hữu hoá và được đem đấu giá kể từ tháng 11/ 1790. Các đất này cũng được dùng
để hậu thuẫn cho việc in ấn Assignats, loại tiền giấy mà không lâu sau đó đã bắt
đầu mất giá. Nhu cầu cải tổ hệ thống thuế má mới và phổ biến đã đòi hỏi rất lâu
hơn để
hoàn thành. Vào 25 tháng 9 1789, Hội Đồng ra nghị quyết rằng giới quý tộc,
giáo sĩ và các thành phần khác được miễn trừ thuế cho tới lúc này, giờ phải chịu
chi trả một phần về các loại thuế trực
thu, tính ngược lại từ nửa năm sau của 1789. Tuy nhiên, những khó khăn về sự hoàn
tất việc đăng ký và đánh giá thuế mới cho mỗi cộng đồng cần rất nhiều thời gian
và hậu quả là Hội Đồng đã phải tiếp tục xử dụng lại hệ thống thuế má cũ cho năm
1790. Sự công bố của Hội Đồng trong ngày 14 tháng Tư 1790 rằng loại thuế thập
phân (10%) sẽ bị loại bỏ kể từ 01 tháng Giêng năm tới như là một phần của việc
cải tổ thuế má chung có nghĩa là thuế này vẫn phải trả cho nhà nước trong năm
1790.
Tuy nhiên, nghị quyết đã được các
cộng đồng khắp và nước diễn dịch rằng dường như không còn lý do gì để trả thuế
ngay lúc này nữa. Các công xã chống lại việc trả thuế thập phân và họ mang mùa
màng thu gặt được về nhà ngay mà không chờ người thu thuế đến. Cuối cùng, một hệ thống thuế mới đặt căn
bản trên giá trị ước lượng và lợi tức nảy sinh từ tài sản đó được giới thiệu kể
từ đầu năm 1791. Các loại thuế mới xem ra cao hơn là dưới thời chế độ cũ và thường
được cộng thêm vào tiền thuê cho những trang chủ thuê mướn đất. Tại vùng Brittany, nơi chế độ phong kiến và
thuế má tương đối nhẹ và các người thuê mướn thường có được hợp đồng thuê dài hạn,
cuộc Cách Mạng làm tăng đáng kể gánh nặng thuế má lên vai người thuê đất mà không
thoả mãn được yêu sách về sự bảo đảm an toàn cho sự thuê mướn của họ. Tuy nhiên
đối với hầu hết giới nông dân, tỷ lệ 10 tới 15% gia tăng thuế nhà nước đã cao hơn
phần đền bù lại có được từ việc chấm dứt
thuế thập phân và sau đó là những lệ phí đóng góp cho lãnh chúa.
Lãnh vực to tát thứ hai cần sự chú
tâm ngay, liên quan đến việc thực hành chủ quyền quần chúng. Trong khi hệ thống
lưỡng viện của Anh Quốc bị khước từ vì có sự bất tín nhiệm sâu sắc từ giới quý
tộc, vua Louis được hưởng lợi với những
quyền hành pháp rộng rãi hơn, thí dụ như quyền chỉ định các bộ trưởng và các nhà
ngoại giao của ông. Nhà vua cũng giữ được quyền phủ quyết giúp cho ông có thể xử
treo luật pháp không thể chấp nhận trong nhiều năm (mặc dù không có được trong các vấn đề liên quan đến thương
mại hay hiến pháp). Sự mơ hồ trong cái ý nghĩa của quyền công dân trong bản Tuyên
Ngôn về Nam Nhân Quyền được giải quyết với sự loại trừ phụ nữ và những nam công
dân “tiêu cực” (có lẽ chiếm tới 40% đàn ông trưởng thành), những người đóng thuế
ít hơn 3 ngày lương lao động và bằng cách áp đặt sự đạt tiêu chuẩn tài sản khó
khăn hơn cho những người có khả năng trở thành các ứng cử viên và các đại biểu.
Trong khi có ít nhất 4 triệu công dân tích cực, chỉ có chừng 50,000 người trong
số họ đóng đủ thuế để trở thành ứng cử viên. Ngược lại, 745 đại biểu trong Hội Đồng
Lập Pháp phải đóng một loại thuế bạc (silver mark), tương đương với 54 ngày công
lao động. Camille Desmoulins đã tố giác “hệ thống quý tộc mới” này trong tờ báo
Les Révolutions de France et de Brabant của ông : “ Thật ra thì việc lập đi lập lại cái từ ngữ “công dân tích cực” này là
có ý nghĩa gì? Các công dân tích cực đúng ra là những người đã đi chiếm giữ Bastilles.”
Hội Đồng Quốc Gia thông qua luật
(thành lập) phố thị vào 14 tháng 12 năm
1789. Luật này rút ra từ sự cân đo rút tỉa trong một cố gắng của Calonne
năm 1787 để cải tổ và thống nhất hoá chính quyền địa phương trong cả nước, nhưng
mang nhiều dấu ấn dân chủ hơn. Viên thị trưởng, các viên chức phố thị và các quý
tộc sẽ được bầu chọn trên nền tảng của một nhượng quyền tài sản. Luật lệ chính
quyền địa phương đại diện một sự thay đổi đáng kể trong quyền tự trị và cử tri đoàn
của các hội đồng làng xã. Lúc này, các thị xã được giải phóng khỏi tay các lãnh
chúa. Luật mới đặt trọng trách lớn lao lên
vai dân làng. Lúc này, họ tự chịu trách
nhiệm trong việc phân bổ và trưng thu các loại thuế trực thu, thi hành các công
việc chung, coi sóc các nhu cầu vật chất của nhà thờ và trường học và giữ gìn
luật lệ và trật tự. Tại những cộng đồng quá nhỏ bé, điều này là trách nhiệm đáng
sợ và không thể thực thi. Hơn nữa, tại miền Tây, luật chính quyền địa phương đã
tạo nên một sự chia cắt khó hiểu của hội đồng thị xã và hội đồng giáo xứ và gạt ra ngoài nhiều người cả nam và nữ thường
có thói quen thảo luận việc giáo xứ sau thánh lễ.
Nhu cầu cấp thiết thứ ba liên quan tới chế độ lãnh chúa. Những cộng đồng
vùng xa xôi hẻo lánh trên cả nước đang chờ đợi để ghi chép lại một nghị định đặc
biệt. Ngay từ khởi đầu cuộc Cách Mạng, Hội
Đồng Quốc Gia đã bị kẹt giữa những đòi hỏi cấp tiến của cuộc cách mạng nông dân
và những cam kết của nó với các nguyên tắc
tài sản tư nhân và để duy trì sự ủng hộ của các quý tộc theo phái tự do.
Hơn nữa, nhà vua, người mà giới nông dân cho rằng ông là người bảo vệ họ trong
thời điểm họ dâng tấu trình khiếu nại, đã bắt đầu phủ nhận sự chấp thuận của ông
trên dự luật thoả hiệp về chế độ phong kiến.
Mãi cho tới ngày 20 tháng 10, sau cuộc xuống đường của phụ nữ Paris tiến
về Versailles, thì dự luật về chế độ chuyên chế bàn thảo từ 4 – 11 tháng Tám cuối
cùng mới trở thành luật. Ngay cả tới lúc
đó, nó cũng đầy rẫy những điểm mơ hồ liên quan tới chế độ lãnh chúa sẽ bị xoá bỏ
ở những phần nào.
Nhưng người nông dân chỉ chấp nhận
mà không nghi vấn gì câu mở đầu của nghị định tháng Tám rằng: Hội Đồng Quốc Gia
xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến. 4 tháng sau tháng 12 1789, nông dân từ 330
giáo xứ ở vùng Tây Nam đã xâm chiếm trên
100 lâu đài để phản đối chống lại các loại lệ phí phải trả trước khi thu hoạch mùa màng. Những cuộc chống đối tương
tự, dù bằng hành vi bạo động hay sự bất tuân lệnh, đã xảy ra tại các tỉnh
Yonne, Loiret, Aisne và Oise và ở tại những vùng như Massif Central, Brittany, Dauphine và
Lorraine. Nhiều cuộc trong những cuộc nổi
loạn này còn kèm theo cái mà Mona Ozouf
gọi là “ những lễ nghi hoang dã”, nơi dân làng bắt đầu phát minh ra những hình
thức ăn mừng lễ tự phát mới xung quanh cái
“cây tự do” ngẫu hứng. Tại Picardy, những
yêu sách đòi hỏi cách mạng cấp tiến hơn nữa chú tâm vào thuế mà và chế độ lãnh
chúa. Thí dụ, tại ngôi làng Hallivillers
thuộc tỉnh Somme, hầu hết cư dân quyết định rằng họ có ý định chấm dứt trả thuế
ngũ cốc và áp lực những người thuê đất
khác liên kết với họ từ chối trả thuế. Sự chống đối kiểu này lan rộng tạo nên bối
cảnh cho sự hoạt động của tay trí thức trẻ Franҫois-Noel Babeuf. Chính Babeuf đã làm việc cho hệ thống lãnh chúa trước
năm 1789 như một”nhà nghiên cứu về hệ thống phong kiến”. Tại nơi này mà sau này
anh tuyên bố rằng anh đã biết đến những bí mật đen tối nhất của hệ thống. Lúc này,
anh ta kêu gọi việc chia đất cho người nghèo (luật cải cách ruộng đất), xoá bỏ
hoàn toàn chế độ lãnh chúa và đánh thuế theo lợi tức hơn là theo tài sản. Đến năm
1790, anh bắt đầu gọi tên mình là Camille, đặt theo tên Camillus, một vận động
viên thế kỷ thứ 4 trước BC đòi hỏi lương đồng đều trong quân đội La Mã.
Vào ngày 15 tháng Ba 1790, những
cuộc tranh luận đã bắt đầu trong phạm vi ủy ban về thể chế phong kiến của Hội Đồng
Quốc Gia liên quan đến dự luật toàn diện về sự thực thi những quyết định tháng
Tám 1789. Không chỉ là các xã ấp được cảnh cáo rằng sự trả giá cho những quyền
như vậy không thể bị ngưng lại trong khi chúng vẫn còn đang được tranh tụng hợp
pháp, nhưng bản năng của cái chứng cứ có thể chấp nhận được dường như đè nặng lên
những cựu lãnh chúa, chỉ yêu cầu chứng cứ được rút ra từ thân thế, tập quán và
các luật lệ được tìm thấy cho tới hiện tại. Nói một cách khác, gánh nặng của chứng
từ giữ nguyên với những ai đã trả. Hội Đồng cũng bỏ phiếu xoá bỏ loại phí đánh
trên việc xử dụng một loại dụng cụ, chỉ không có sự đền bù nếu không có chứng từ
gì về một khế ước chấp nhận sự hiện hữu của chúng. Điều này có thể lấy từ một mẩu
của tài liệu chính thức hay những phiên bản sau đó được coi như một hợp đồng.
Cuối cùng, vào ngày 3 tháng Năm, một nghị quyết được đặt ra cái giá cho sự chuộc
lại các quyền lãnh chúa. Đối với loại thuế lao động,
thuế xử dụng và các loại phí trả bằng tiền, tỷ lệ của sự chuộc lại được đặt ở
20 lần giá trị thường niên, và 25 lần cho những người tử tế.
Qua những tường trình mang tính
quấy động đổ về từ các tỉnh mới và từ các phóng viên cá nhân mà các đại biểu nhận
được. có sự rõ ràng thật nhanh chóng rằng trong hầu như cả nước, bộ luật thoả
hiệp tháng Ba và Tháng Năm 1790 đã gặp phải những phản đối và đôi khi có cả chống cự bằng bạo lực. Hành
động này mang 2 hình thức. Một, từ khi bộ luật 1789-1790 coi những yêu sách thái
quá của lãnh chúa như một hình thức hợp pháp của sự thuê mướn mà người nông dân
chỉ có thể chấm dứt bằng sự bồi thường
cho lãnh chúa, nhiều cộng đồng đã quyết định đưa ra pháp luật để buộc giới lãnh
chúa đưa ra các chứng thư tước vị của họ cho sự kiểm tra tư pháp. Những hành động như
vậy thường khá hợp pháp, nhưng phản ảnh sự loan toả tới những cộng đồng xa xôi
nhỏ bé đã sẵn sàng để đấu tranh chống lại sự hợp pháp của hệ thống lãnh chúa, mà
họ đang phải sống dưới sự thống trị của nó, vì họ đã phải trả giá pháp luật cho
sự tra xét. Sự thách đố luật pháp này thường được nối kết với một hành động thứ
hai, trong lúc này còn bất hợp lệ, là sự từ chối trả thuế. Tại khu vực Corbières của vùng Languedoc, ít
nhất 86 trong số 129 xã đã có liên quan đến hành động hợp pháp chống lại lãnh
chúa hay công khai từ chối trả thuế trong khoảng 1789 – 1792. Hơn nữa, nhà nước
đã tự đặt mình vào một vị trí lúng túng qua việc đồng thời triệt hạ một phần thể chế lãnh chúa và quốc hữu
hoá tài sản của Giáo Hội, vì lúc này nhà nước tự tìm thấy rằng sở hữu chủ của tất
cả các loại thuế phí trả cho lãnh chúa không chịu áp lực này thuộc về những lãnh
chúa thuộc giáo hội.
Cuộc Cách Mạng trở nên phổ thông
và tồn tại rất lâu một cách áp đảo: sự vươn rộng thay đổi trong đời sống công cộng
khó có thể hiểu được ngoại trừ trong một bối cảnh của sự lạc quan và có sự ủng hộ lớn lao. Thí dụ, Michael
Fitzsimmons đã nhấn mạnh hảo ý toàn quốc cho viễn ảnh của một xã hội hài hoà và
sự tái sinh như Hội Đồng Quốc Gia đã đi vào công việc ngoạn mục của nó sau
1789. Những người đến lấp đầy khoảng trống quyền lực mà sự sụp đổ của chế độ cũ
để lại và những người nằm trong số những
kẻ đầu tiên hưởng phúc lợi từ cuộc Cách Mạng là giới tư sản. Bi kịch tái tổ chức các cơ chế có ý nghĩa rằng
hàng ngàn các viên chức tầng lớp trung lưu và các luật sư mất đi vị trí của họ,
dù có lợi hay không. Tuy nhiên, không chỉ
là họ đã thành công trong việc được bầu chọn vào các vị trí trong cấu trúc mới,
nhưng còn là họ được bồi thường cho công việc đã mất. Quả thực, cái giá cuối cùng
của sự bồi thường cho những văn phòng có lợi nhuận lên đến hơn 800 triệu
Livres, làm cần đến việc in ra một khối lượng khổng lồ tiền giấy Assignat và làm
cho lạm phát hạ xuống. Sự bồi thường này đã đến tại một thời
điểm lý tưởng để đầu tư vào lúc có một số lượng lớn lao các tài sản của Giáo Hội
được tung ra thị trường từ tháng 11 năm 1790.
Được bán ra theo kiểu đấu giá và trong những lô đất rộng lớn, mớ tài sản
béo bở này đã được giới tư sản thành phố, các nông gia giàu có, và lạ thay,
ngay cả một số quý tộc mua. Tỷ như tại khu quận Grasse ở miền Đông
Nam nước Pháp, nơi chỉ có khoảng 6.8% đất
đổi chủ, các tay tư sản địa phương đã thống
trị các cuộc đấu giá. Ba phần tư số tài sản đem bán đã do một phần tư người mua
chiếm được. 28 trong số 39 người mua lớn nhất là thương buôn từ Grasse.
Tuy nhiên, có những nhóm riêng biệt
trong giới tư sản lại ở trong thành phần những người hối tiếc sự sụp đổ chế độ
cũ vì nó đe doạ đến cuộc sống của họ. Thí dụ, những người trở nên giàu có nhờ hệ
thống nô lệ qua việc mua bán nô lệ hay các chủ đồn điền tại các thuộc địa đã lo
lắng vì e ngại những nguyên tắc trong bản Tuyên Ngôn về Nam Nhâm Quyền sẽ vươn
xa tới áp dụng tại các thuộc địa vùng Caribbean. Một cuộc tranh cãi gay gắt gây
ngăn cách chia rẽ đám vận động hành lang cho thuộc địa chống lại hội “Những thân
hữu của dân da đen” bao gồm Brissot, Robespierre và Grégoire.
Không có thành phố nào của Pháp dễ
bị sụp đổ vì sự thay đổi cuộc sống trong liên hệ quốc tế hay chịu phụ thuộc vào
việc buôn bán nô lệ cùng những liên hệ đặc quyền thương mại với xứ St- Dominique hơn thành phố La Rochelle. Tại
nơi này, cuộc Cách Mạng được chào đón thật nhiệt tâm, đặc biệt với những người
Tin Lành chỉ chiếm chừng 7% trong số 18,000 cư dân nhưng thống lĩnh mọi lãnh
vực kinh tế và xã hội ngoại trừ quyền lực chính trị. Vào năm 1789, họ chiếm luôn
lãnh vực đó. 9 trong số 12 người ở trong hội đồng thành phố La Rochelle là thương
buôn, 5 trong số họ là người Tin Lành. Các
thương buôn đã xây dựng một nhà thờ Tin Lành với một tốc độ nhanh đáng kể và đặt
những nguồn tài nguyên đáng kể của họ đằng sau đất nước mới. Daniel Garesché,
chủ nhân của 6 con tàu chuyên chở nô lệ và là thị trưởng thành phố trong
1791-1792 đã dâng cúng 17,000 livres, sau đó thêm 50,000 nữa như một sự “cộng tác lòng yêu nước”.
Sự nhiệt tâm của thương buôn cho
cuộc Cách Mạng rất thực dụng. Người dân La Rochelle đã luôn luôn có thể thoả hiệp
những nguyên tắc đó với những lợi ích riêng của họ. Bản tấu trình khiếu nại của
tầng lớp thứ ba của thành phố La Rochelle là một lời biện hộ hùng hồn cho tự do
và nhân bản: việc dùng roi đánh vào người nô lệ bị lên án là đối nghịch với nhân
tính, như không thể hoà giải được với sự khai sáng và lòng nhân đạo mà nó phân
biệt ra đất nước Pháp. Tuy nhiên, việc mua bán nô lệ tự nó không được nói đến.
Các thương buôn biết rằng dân Phi Châu cũng là con người momg muốn được sống tự
do: Các nô lệ sẽ tự động được tự do một khi họ bước chân lên đất Pháp và đã có 44 nguời da đen được tự
do trong thành phố vào năm 1777 (cũng có 750 tại Paris). Pierre-Samuel Demissy,
một trong những quan sát viên tại Đại Hội Đồng đã làm một lỗi lầm trong việc
gia nhập vào hội “Bạn Hữu người da đen” và kêu gọi xoá bỏ chế độ nô lệ trong năm 1789. Ông
ta đã nhận ra sai lầm trong phương cách của ông vào năm sau đó. Ông đi đến sự đồng
ý với người bạn đồng quan sát Jean-Baptiste Nairac của ông, người luôn luôn hy
vọng rằng những lãnh vực chính trị quan trọng sẽ chiến thắng những xét đoán về đạo
đức. Khi cuối cùng, H ội Đồng không
thay đổi gì trong cái nghị quyết ngày 8 tháng Ba 1790, Nairac đã vui mừng hân
hoan: “Không có một danh xưng thực sự
thì nó vẫn giữ nguyên là ngành buôn bán
nô lệ, chế độ nô lệ vẫn là chế độ độc nhất.” Chỉ có 5 đại biểu bỏ phiếu chống
lại nghị quyết. Vào tháng Năm 1791, Hội Đồng đã đáp lại qua sự ban cấp quyền công
dân “tích cực” cho người da đen tự do nếu cha mẹ họ có tự do và số tài sản cần
thiết, nhưng vẫn tránh né chủ đề nô lệ:
“Những nghị quyết của Hội Đồng Quốc Gia mà nó không bao giờ cứu xét đến
địa vị của người dân da màu không được sinh ra từ cha mẹ có tự do, không có ước
mong tự do và tự ý tại các thuộc địa vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào các hội đồng
thuộc địa hiện hữu đương thời. Còn những
dân da màu có cha mẹ tự do, họ sẽ được thu nhận vào trong những hội đồng thuộc
địa và giáo khu mới trong tương lai, nếu như họ có được những tiêu chuẩn (tài sản)
đòi hỏi.”
Cái thí dụ về vùng La Rochelle chỉ
ra sự quan trọng bền bỉ của các công việc đối ngoại. Các sử gia đã đồng ý rằng,
trước 1789 và sau 1791, các vấn đề của
chính sách đối ngoại và chiến lược quân
sự thống lĩnh chương trình nghị sự cải tổ nội bộ. Họ cũng giả định một cách
chung chung rằng cái khoảng thời gian 2 năm
1789-1791 cuốn hút trong sự thay đổi Cách Mạng là một thời gian khi
sự cải tổ nội bộ cấp tiến đã làm Hội Đồng bận tâm. Ngược lại, như Jeremy
Whiteman phản biện, một sự thúc đẩy chính
cho sự cải tổ Cách Mạng này quả thực là
ước muốn tái sinh nước Pháp cũng như khả năng của nó hành động như một yếu tố
thương mại và quân sự then chốt tại Âu Châu và vùng Caribbean. Trọng tâm
của sự nhiệt tâm đổi mới của Hội Đồng Quốc Gia là niềm tin rằng đất nước mới vì
thế sẽ tái sinh và lấy lại vị thế quốc tế mà nó đã có được trước những tủi nhục
liên tục về đối ngoại từ 1763. Như trước
năm 1789, 3 trong 6 bộ ngành là bộ chiến tranh, bộ Hải Quân và bộ Đối Ngoại.
Mặc dù lo lắng cho sự phồn thịnh
tương lai, La Rochelle đã chân thành ủng hộ Cách Mạng. Ở nơi khác, sự phẫn nộ đối với cuộc Cách Mạng
phát xuất từ đủ loại thất vọng, như việc mất
đi vị thế sau việc tái tổ chức hành chánh quản trị, như bộ phận Chiến
Tranh tại Vence nơi mà một cuộc vận động mạnh mẽ đã thất bại trong việc bảo vệ toà
giám mục, giờ được di dời qua St-Paul gần đó. Như Ted Margadant đã chỉ ra, văn
phòng của lãnh đạo tỉnh lỵ, khu quận và hàng tổng làm các nhà lập pháp bị tràn ngập với hàng đống đơn từ phàn nàn khiếu
nại và các đối thủ có thể gọi vào đối chất sự ủng hộ cho Cách Mạng tại các thị
trấn mà trước đó đã được duy trì nhờ sự
hiện diện của hệ thống phức tạp các toà án và văn phòng của chế độ quân chủ
Bourbon.
Nơi sự trung thành với các giáo
phái trùng hợp với những căng thẳng giai cấp, Cách Mạng đã khơi mào cho những hận
thù công khai. Trong nhiều vùng ở phía Nam nơi một tay tư sản Tin Lành đã thắng được tự do tôn giáo và sự bình đẳng dân
sự, mở đường cho quyền lực chính trị, sự từ chối tuyên bố Công Giáo là quốc giáo
của Hội Đồng vào tháng Tư 1790 đã tạo nên lý cớ cho cuộc bạo loạn rộng lớn tại
Montauban và Nimes. Tại đây, như trong các cộng đồng Tin Lành của miền Nam
Massif Central, những ký ức về chế độ cũ nhấn mạnh sự ủng hộ Tin Lành đối với một cuộc Cách Mạng đã mang lại quyền bình đẳng dân
sự cho họ. Tại Nimes, sự thù hằn của đám
Công Giáo bình dân đối với vai trò chính trị và kinh tế của những người Tin Lành
giàu có đã bị đè bẹp đẫm máu khi những
toán nông dân Tin Lành từ những vùng Cévennes và Vaunage lân cận kéo về thành phố. Cuộc bạo loạn tại Nimes đã
được biết như là cuộc tranh cãi của Nimes, một sự đặt sai tên cho 4 ngày chiến
đấu dẫn tới 400 người Công Giáo tử vong, và chỉ có vài người Tin Lành. Tin tức về sự giết chóc đã thổi bùng lên những
nghi ngại rằng Dân Tin Lành đang lạm dụng Cách Mạng: Chẳng phải là Rabaut de
Saint-Étienne, một mục sư Tin Lành được bầu chọn làm chủ tịch Hội Đồng sao? Sự
nghiêm trọng của việc chia rẽ tôn giáo như vậy được làm rõ ràng trong giây phút đầu tiên của sự bất mãn trong
khối bình dân đối với Cách Mạng khi vào giữa năm 1790, có từ 20,000 – 40,000 nông
dân công giáo từ 180 giáo xứ đã thiết lập nên cái “Trại Jales”chết yểu tại Adèche.
Tuy nhiên, sự liên minh quần chúng
của tầng lớp thứ ba và các đồng minh của họ trong số giới giáo sĩ và các quý tộc
“ái quốc” tiếp tục tạo nên một cảm giác
mạnh mẽ về sự đoàn kết quốc gia và sự tái
sinh trong năm 1790. Sự đoàn kết này được ban hành bởi “Lễ Hội Liên Bang” trong
dịp kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày phá ngục Bastille. Tại Champ de Maers, nơi đã được san lấp bằng
phẳng bởi lao động tình nguyện, vua Louis, Talleyrand (viên cựu giám mục thành
Autun) và tướng Lafayette đã tuyên bố sắc lệnh mới trước mặt 300,000 dân Paris.
Buổi lễ này đã xảy ra dưới những hình thức khác nhau trên cả nước. Một thí dụ về
việc xử dụng lễ hội như một yếu tố của nền văn hoá cách mạng chính trị. Trong một
xã hội đầy những nghi thức tôn giáo và sự phô trương sự lộng lẫy của hoàng gia,
các buổi lễ ăn mừng sự đoàn kết cách mạng đã dùng lối cũ như một phong cách nếu
không phải là cho nội dung hay hình ảnh. Các thợ mỏ than vùng Montminot đã thừa
nhận một lễ hội truyền thống bằng việc thề hứa với cái rìu được giơ cao, biểu
hiệu sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ toà lâu đài tốt đẹp nhất trên đời: đó
là Hiến Pháp nước Pháp. Tại Beaufort-en Vallée trong thung lũng Loire ở miền Tây
nước Pháp, 83 người đàn bà đã rời khỏi lễ hội và sau đó trở lại trong những bộ
trang phục mới. Đối với phụ nữ giỏi giang và lưu tâm đến thời trang, tờ báo tại
Paris “Journal de la mode et du gout” đã có đầy rẫy những bình luận về thời
trang cho kỷ nguyên mới với những kiểu
thời trang đơn giản và mang tính chất ái quốc hơn chẳng hạn như các mẫu mũ nón thời trang tự do.
Lễ hội Liên Bang được cử hành ăn
mừng sự liên kết Giáo Hội, Vương triều và Cách Mạng. Hai ngày trước, Hội Đồng
Quốc Gia đã bỏ phiếu cho một sự cải tổ làm
suy yếu cả ba. Sự đồng ý lan toả trong những tấu trình khiếu nại về nhu cầu đổi
mới đã bảo đảm rằng Hội Đồng có thể đẩy mạnh việc quốc hữu hoá đất đai của Giáo
Hội, đóng cửa các tu viện trầm mặc và ban cấp sự tự do tôn giáo cho Tin Lành
trong năm 1789 và cho người Do Thái năm 1790-1791. Gắn kết sự đối kháng của giáo
sĩ đối với những thay đổi này cuối cùng
chú trọng vào luật “Hiến Pháp dân sự cho
giới giáo sĩ” được bỏ phiếu vào ngày 12 tháng Bảy 1790. Không có vấn đề phân cách
Giáo Hội và nhà nước: nhiệm vụ công cộng của giáo hội được giả thiết là thiết yếu
trong đời sống hàng ngày, và Hội Đồng chấp nhận rằng các thu nhập công cộng sẽ
hỗ trợ tài chánh cho Giáo Hội sau việc xoá bỏ thuế thập phân. Bởi thế Hội Đồng đã biện luận rằng, giống như
thể chế quân chủ trước đó, chính quyền Cách
Mạng có quyền hạn để cải tổ cơ cấu thế tục của
Giáo Hội.
Nhiều linh mục đã hưởng lợi về vật
chất nhờ hệ thống lương bổng mới, chỉ có hàng giáo sĩ cao cấp mới nuối tiếc về
việc trợ cấp của các giám mục đã bị giảm thiểu trầm trọng. Tuy nhiên, Hội Đồng
khi tái phân bổ các địa giới của giáo xứ và giáo phận đã khám phá ra hàng đống
các phàn nàn đồng loạt từ những cộng đồng nhỏ và các giáo khu thành phố lúc này
đòi hỏi thực hành viêc thờ phượng tại nhà thờ láng giềng. Tuy nhiên việc tranh cãi nhất là vấn đề trong
tương lai, giáo sĩ sẽ được đề cử như thế nào. Đối với những phản kháng gay gắt
từ các đại biểu Giáo sĩ trong Hội Đồng rằng phẩm trật trong giáo hội đặt nền tảng
trên nguyên tắc thần quyền và được truyền cảm cho sự đề bạt từ cấp trên cao. Các
đại biểu như Treilhard vặn lại rằng điều này đưa đến sự lạm dụng quyền hành. Chỉ
có người dân có thể chọn linh mục và giám mục cho họ:
“Thay vì hạ thấp tôn giáo, để bảo đảm rằng tín ngưỡng có những thừa sai
trung thực và đạo đức, quý vị đang tôn vinh nó mạnh mẽ nhất. Ai tin rằng điều này sẽ làm tổn thương tôn
giáo, người đó đang tự tạo ra một ý tưởng
thực sự sai lầm về tôn giáo.”
Tuy nhiên, trong việc áp dụng chủ
quyền quần chúng cho sự bầu chọn các
linh mục , giám mục, Hội Đồng Quốc Gia đã
vượt qua ranh giới mỏng manh giữa
đời sống tâm linh và đời sống thế tục.
Nhiều sử gia đã nhìn thấy bản “Hiến
Pháp dân sự cho giới Giáo Sĩ” như giây phút rạn nứt sanh tử của Cách Mạng và đã
tự hỏi tại sao Hội Đồng ra vẻ như không sẵn sàng thương lượng hay thoả hiệp.
Tuy nhiên, cuối cùng điều đó chứng tỏ không thể nào có sự hoà giải một Giáo Hội
đặt căn bản trên cái phẩm trật về việc truyền chức dựa trên thần quyền và tín lý
và một sự xác quyết về một niềm tin thực sự với một cuộc Cách Mạng đặt nền tảng
trên chủ quyền quần chúng, sự bao dung và một xác quyết về sự làm tròn nhiệm vụ
trần thế qua sự áp dụng lý lẽ thế tục. Trên hết, qua áp dụng việc thực thi quyền
công dân tích cực cho việc lựa chọn giáo sĩ, Hội Đồng Quốc Gia đã loại trừ phụ
nữ và người nghèo ra khỏi cộng đồng của tín ngưỡng, và theo lý thuyết, kể cả
người Tin lành, Do Thái và những người không tín ngưỡng dù họ đủ giàu để có quyền
bầu cử. Một thoả hiệp cũng không thể thành tựu, vì, với sự xoá bỏ các tập đoàn
năm 1789, đa số Hội Đồng kiên quyết rằng chỉ một mình Hội Đồng có thể làm ra luật
lệ cho đời sống chung: một hội nghị của giáo hội không thể được tham vấn rằng
liệu có nên đồng ý với những cải tổ đã được các đại diện nhân dân bỏ phiếu hay
không.
Đối mặt với sự phản kháng của hầu
hết các đại biểu Giáo sĩ, bị thúc đẩy bởi việc gia tăng sự mất kiên nhẫn do sự
cố chấp của hầu hết các giám mục, Hội Đồng đã tìm cách ép buộc vấn đề bằng việc
đòi hỏi các cuộc bầu cử được tổ chức vào
ngày đầu năm 1791, với những ai được bầu chọn sẽ tuyên thệ trung thành với luật pháp, quốc gia và nhà vua. Khắp nơi, các linh mục đối diện lời
tuyên thệ với một sự lựa chọn cay đắng với
lương tâm. Hiến Pháp được nhà vua phê chuẩn, nhưng liệu nó có tháo gỡ khỏi nỗi
lo lắng của họ rằng lời tuyên thệ đi ngược lại với sự trung thành với Giáo Hoàng
và việc thực hành tôn giáo đã thiết lập từ bao đời? Nhiều linh mục tìm cách giải
quyết tình trạng khó xử bằng một lời hứa có giới hạn, như vị linh mục của giáo
xứ Quesques và Lottinghem ờ phía Bắc tỉnh Pas-de-Calais:
“Tôi tuyên bố rằng tôn giáo của tôi không cho phép tôi chấp nhận một lời
tuyên thệ như Hội Đồng Quốc Gia đòi hỏi.
Tôi cảm thấy hài lòng và tôi hứa gìn giữ
hết sức mình về niềm tin của
giáo xứ này đối với những ai đặt niềm tin vào tôi, thực tâm đối với đất
nước và nhà vua và coi trọng hiến pháp
được Hội Đồng ban hành và nhà vua phê chuẩn trên mọi lãnh vực thuộc về quyền năng của
ngài, trong mọi lãnh vực thuộc về nó, trong các mệnh lệnh của các vấn đề hoàn
toàn thuộc về dân sự và chính trị, nhưng với những lãnh vực mà chính quyền và
luật lệ của Giáo Hội cùng liên quan, tôi không thừa nhận cấp trên và các nhà làm
luật nào ngoại trừ Giáo Hoàng và các giám mục…”
Cuối cùng, chỉ có một số giám mục
và có lẽ một nửa các linh mục coi sóc giáo
xứ tuyên thệ. Một số lớn các linh mục
sau đó đã rút lại lời hứa vào tháng Tư 1791 khi Giáo Hoàng cũng phản đối vì sự
sát nhập đất đai của toà thánh tại Avignon vào quốc gia Pháp mới, và lên án bản
Hiến Pháp Dân Sự và Bản Tuyên Ngôn về Nam Nhân Quyền là trái ngược với đời sống
Kitô hữu. Giáo Hoàng khuyến cáo hàng giáo sĩ Pháp nên coi bản hiến
pháp giáo sĩ là dị giáo:
“ Hãy đặc biệt coi chừng, tai của
các ngươi phải nghe những lời xảo quyệt
của đám thế tục này với những giọng điệu
viện dẫn tử thần, và tránh xa những kẻ chiếm đoạt dù chúng có là tổng giám mục,
giám mục hay linh mục quản xứ, để không có gì chung chạ giữa các ngươi và bọn
chúng, đặc biệt trong các vấn đề thần thánh, bởi vì không ai có thể ở trong
Giáo Hội chúa Kitô, trừ khi họ hiệp thông với đầu não hữu hình của Ngài chính là Giáo Hội…”
Vào giữa năm 1791, có 2 nước Pháp
nổi lên cùng lúc, ngược lại với những khu vực miền Đông Nam ủng hộ cải tổ, vùng
lưu vực Paris, Champagne và trung tâm với các vùng Tây, Tây Nam, Đông và phía Nam vùng Massif Central “ương ngạnh.” Sức
mạnh của giới giáo sĩ “ngoan cố” tại những khu vực biên giới mang lại cho cư dân
Paris sự nghi ngờ rằng đám nông dân không biết tiếng Pháp là những con mồi cho
những ”dị đoan mù quáng” của các linh mục cuồng tín.
Sự trái ngược vùng miền sâu sắc
trong việc sẵn sàng tuyên thệ gợi ý rằng đó không chỉ là vấn đề lựa chọn cá nhân
mà còn là văn hoá tôn giáo địa phương. Trong các khu vực miền rộng lớn, giới giáo sĩ “cố chấp”
tự coi mình như đầy tớ của Thiên Chúa,
trong khi các giáo sĩ “theo hiến pháp”
coi họ là những người phục vụ người dân. Đối với những người phe trước, được chống lưng bởi một sự hiện diện mạnh mẽ của giới giáo sĩ, bản Hiến
Pháp Dân Sự (cho giáo sĩ) thật đáng nguyền rủa đối với cộng đoàn, cấu trúc tôn ti trật tự của Giáo Hội
và sự lãnh đạo của Giáo Hoàng. Đối với những người thuộc phe sau, trong các lãnh vực mà Giáo Hội
tự dành cho mình một vai trò trần tục yếu kém hơn trong cuộc sống
thường ngày, đó là nhân dân theo ý nguyện
của Chúa và cộng đồng Công Giáo thay thế cho cái phẩm trật của Giáo Hội.
Những đáp trả của giới giáo sĩ cũng
phải được coi như sự phản ánh các thái độ của các cộng đồng rộng lớn hơn vì chỉ
có một số nhỏ các linh mục có đầy đủ độc lập từ những cộng đồng của họ để dám
khinh thường ý kiến công cộng. Tại những thành phố lớn như Paris,, các linh mục
chống lại bản Hiến Pháp Dân Sự liều mạng một cách vô lý. Louis-Sébastien
Mercier, một nhà quan sát sâu sắc và là
nhà cách mạng đã diễn tả vị linh mục quản xứ St-Sulpice đã cố diễn giảng để chống lại sự cải tổ của Hội Đồng như thế nào:
“Một tiếng hét phẫn nộ vang dội qua những vòm cung của thánh đường. Thình
lình, tiếng đàn phong cầm oai hùng tràn ngập thánh đường với âm nhạc hài hoà và
vang vọng qua từng trái tim cái âm điệu nổi bật: “Ah! Ҫa ira! Ҫa ira! (A! Rồi sẽ
ổn thôi!).” Người xúi gịuc việc phản cách
mạng được mời tới hát “ҫa ira.” Anh ta bước xuống khỏi ghế ngồi, che mặt với tiếng cười , xấu hổ và mồ hôi nhễ nhại.”
Tại các vùng quê xa xôi của Pháp,
lời thề trở thành một thử nghiệm của sự quần chúng chấp nhận Cách Mạng hoàn toàn.
Ở vùng Đông Nam và thung lũng Paris, nơi sinh hoạt công cộng từ lâu đã phần nào
trần tục hoá và các linh mục được coi như chỉ cung cấp các dịch vụ tâm linh, đã
có một sự chấp nhận lớn lao bản Hiến Pháp Dân Sự cũng như Cách Mạng một cách phổ
quát. Trong những vùng có đám thiểu số dân Tin Lành nổi bật, như vùng Cévennes,
việc thề hứa thay vào đó lại dấy lên những nỗi lo sợ to lớn hơn về các cuộc tấn
công vào lối sống mà lễ nghi Công Giáo và công việc từ thiện là những việc then
chốt. Tại cái thị trấn nhỏ phía Nam của Sommières, đám đông đàn bà con nít không
chỉ chĩa mũi dùi giận dữ vào những người Tin Lành địa phương mà cả vào ban quản
trị Công Giáo ủng hộ Cách Mạng bị coi như đang phá hủy những hình thức của đời
sống tôn giáo đã được thiết lập vững vàng.
Sự rút lại lời thề của một linh mục
gây đau khổ cho một cộng đồng. Tại Missiègre
dưới chân rặng đồi Pyrénées, các viên chức thành phố đã tường trình với một sự
hối tiếc rõ ràng trong tháng Tư 1792 rằng vị linh mục của họ đã rút lại:
“Vị linh mục Lacaze của chúng tôi đã không rút lại lời thề dưới bất cứ cách
nào liên quan đến (vấn đề) thế tục. Ngược lại, ngài khuyến khích chúng tôi vẫn
phải trung thành và tuân theo luật pháp, đất nước và nhà vua và ngài không mong
ước gì hơn ngoài sự tốt đẹp, bình an và hạnh phúc của người dân. Và ngài cũng khuyến khích chúng tôi cũng phải mạnh mẽ
trong việc gìn giữ niềm tin Công Giáo làm cho chúng tôi cảm thấy một nỗi phiền
muộn sâu xa khi chúng tôi nghĩ về những phẩm chất tốt đẹp của ngài mà chúng tôi
biết. Ngài từ bỏ việc thu thuế (thập phân) và tuyên bố rằng ngài muốn giới quý
tộc cũng phải đóng thuế giống như bất cứ thường dân nào. Đây là những lời lẽ ngài
nói vào ngày 11 tháng Ba vừa qua khi ngài đã rút lại mọi thứ mà lương tâm của
ngài ép buộc trên mức độ tâm linh. Hơn nữa, ngài tuyên bố rằng ngài đã sẵn sàng
để tuyên thệ để duy trì lòng yêu nước với tất cả sức mạnh và ngài không có mong ước nào khác hơn
là ở lại cùng chúng tôi cho tới hơi thở cuối cùng để tiếp tục là một tấm gương
tốt lành và những lời giảng dạy trong các
ngày Chúa Nhật và các ngày lễ.”
Vào tháng Tám, hàng ngàn xã ấp đã
bỗng thấy không còn có một vị linh mục quản xứ và những thói quen thường nhật
trong đời sống giáo xứ.
Sự tản quyền cấp tiến tạo nên một tình trạng nơi
ngành lập pháp Cách Mạng từ Paris được phiên dịch và đáp ứng với nhu cầu của địa
phương. Khắp nơi, sự khai sinh ra những hệ thống quản trị mới trong bối cảnh chủ
quyền quần chúng và hoạt động lập pháp bận rộn là một phần của sự tạo nên nền văn
hoá chính trị theo đường lối Cách Mạng.
Trong cái diễn tiến này, khoảng nửa triệu
người hay hơn thế đã được bầu chọn vào các chính quyền địa phương, ngành tư pháp
và các vị trí quản trị hành chánh đóng vai trò cốt lõi trong cái khoảng trống
hiện hữu giữa chương trình quốc gia của Hội Đồng Cách Mạng và những đòi hỏi của
tình trạng địa phương. Khối lượng văn bản pháp luật từ Paris đổ về, cũng như sự
kỳ vọng rằng các xã ấp sẽ tham gia vào việc thi hành chúng đã vô cùng tương phản
với tình trạng dưới chế độ cũ. Việc thực thi luật pháp mà đối với hầu hết người
dân thường xem ra xa lạ cả về nội dung lẫn ngôn ngữ, và thường thiếu các nguồn
tài nguyên, các công dân tích cực: các chuyên gia, các nông gia giàu có, thương
buôn và chủ đất, nên đòi hỏi quá nhiều thời gian và năng lực. Nơi luật pháp đặc biệt không phổ biến, nhất là
các luật liên quan tới việc hoàn trả lại các loại thuế phí lãnh chúa hay việc cải
tổ tôn giáo, đây là một cam kết có thể mang đến cho họ sự cô lập và khinh thường.
Công việc của Hội Đồng Quốc Gia
thật rộng lớn cả về phạm vi và năng lựợng.
Nền tảng của một trật tự xã hội mới đã được đặt để, nhấn mạnh qua giả
thiết về sự đoàn kết quốc gia của tình anh em trong quyền công dân. Cùng lúc đó, Hội Đồng cũng đang đu dây: đây là
cuộc Cách Mạng của ai? Một mặt, nó đang gây nên hận thù từ những quý tộc và giới ưu tú cao cấp của giáo hội phẫn nộ vì sự
mất mát thân thế, tài sản và các đặc quyền ưu tiên và được các linh mục quản xứ
và các tín đồ hoang tưởng ủng hộ. Mặt khác,
Hội Đồng tự xa rời cái nền tảng phổ quát
của Cách Mạng qua sự thoả hiệp với các loại thuế phí phong kiến, qua ác cảm đối
với giới giáo sĩ không tuyên thệ, qua sự
bỏ qua những tiêu cực từ diễn biến chính trị và qua sự thực hiện giải phóng
kinh tế.
Bản Tuyên Ngôn về Nam Nhân Quyền đã
nín lặng trong các vấn đề kinh tế, nhưng vào
năm 1789-1791, Hội Đồng thông qua
một loạt các biện pháp tiết lộ về cam kết của nó về việc giải phóng kinh tế. Hội Đồng xoá bỏ những thuế quan nội địa và sự
kiểm soát vấn đề mua bán mễ cốc nhằm mục đích khuyến khích thị trường quốc gia
và cổ vũ sáng kiến. Từ cái triển vọng như
vậy, mọi cấu trúc tập đoàn của chế độ cũ,
từ những tiêu chuẩn đặc quyền tầng lớp đến các đại hí viện và các bang hội, tất
cả đều bị coi như đi ngược lại với tự do
cá nhân. Các chướng ngại vật ngăn cản quyền tự do nghề nghiệp được xóa bỏ qua sự
giải thể các bang hội (luật d’Allarde ban hành tháng Tư 1790), và quan trọng nhất,
một thị trường lao động tự do được áp đặt theo luật Le Chapelier ban hành ngày
14 tháng Sáu 1791 đặt các hiệp hội chủ nhân và công nhân ra ngoài vòng pháp luật:
“Điều 1: Sự phá vỡ tất cả các loại cơ quan tập thể của các công dân
trong cùng một ngành một nghề là một trong những điều cơ bản làm nền tảng của Hiến Pháp nước
Pháp. Quả thật, điều đó cấm tái thiết lập chúng dưới bất cứ lý do nào và tronng
bất cứ hình thức nào.
Điều 2: Các công dân cùng trong một ngành nghề, các doanh nhân, những
chủ nhân các cửa tiệm, các công nhân và thợ thủ công của bất cứ nghệ thuật
nào, khi họ nhóm họp chung với nhau, cũng sẽ không được đề cử một chủ tịch, một
bí thư, một đại lý hay quản thủ, hay được phép đưa ra một nghị định hay một quyết
định, quy tắc chính thức nào trong sự nhân
danh lợi ích chung.”
Le Chapelier, một luật sự được ban tước vị quý tộc đã chủ toạ buổi họp
ngày 04 tháng Tám 1789 của Hội Đồng Quốc Gia và là một trong những đại biểu cấp
tiến của khu vực Breton, những người thành lập Câu Lạc Bộ Jacobin. Trong khi điều
luật của ông, cùng với điều luật của d’Allarde là yếu tố quyết định tạo nên nền
kinh tế “laissez-Faire” (cung cầu tự do không bị can thiệp), chúng cũng nhắm đến những cách thực thi “phản
Cách Mạng” và những đặc quyền ưu tiên của chế độ cũ. Không còn nữa những tầng lớp
riêng biệt của Giáo Sĩ, Quý tộc hay bang hội, vùng miền hay thị xã đã từng có
thể đòi hỏi những ưu tiên, độc quyền đặc biệt. Thế giới cũ với những tập đoàn đã
chết.
Tại các vùng quê, sự bất mãn về mức độ của các khoản thuế khoá
mới trùng hợp xảy ra giữa năm 1791 với sự tái
phẫn nộ về câu hỏi liên quan đến thuế phí lãnh chúa chưa được giải quyết. Trong
khi sự từ chối đóng thuế vẫn tiếp tục qua năm 1791, năm mới đã có sự khác biệt
với số lượng kiện tụng khổng lồ nơi các xã ấp, mặc cho sự đói khổ của họ, đã
gia tăng thuế địa phương để đưa ra toà án đòi hỏi các viên cựu lãnh chúa phải đưa
các văn bản chứng thư có hiệu lực ra cho họ xét đoán và xác minh. Thêm vào đó,
những điểm sáng của Cách Mạng vùng quê đặc biệt ở phía Nam không chỉ liên quan
đến các quyền hạn của lãnh chúa mà lan qua lãnh vực đất đai. Trong nhiều thế kỷ,
vùng đất hoang ngoại biên bỏ trống đã được các cộng đồng địa phương dùng để chăn
nuôi súc vật gặm cỏ với một lệ phí trả cho lãnh chúa. Các lãnh chúa cũng cho phép
một số lượng giới hạn việc khai quang các khu đất không trồng trọt được, mặc dù
việc khai quang này đã bị hạn chế bởi nhu cầu cần đồng cỏ cho đàn cừu và với nhận thức rằng, khu đất trồng trọt được
ngay tức khắc sẽ phải chịu sự đóng thuế lãnh địa.
Sự củng cố các biện pháp của Hội
Đồng để tái bảo đảm cho các cựu lãnh chúa và làm ngưng trệ sự khai phá phổ thông
tại miền quê là sự quan tâm đến hành động trực tiếp trên đất đai trực thuộc nhà
nước và các lãnh chúa, Trong tháng 10 và tháng 11 năm 1789, các tin tức về việc
xâm chiếm rừng núi lan rộng làm cho những
tuyên bố của hoàng gia tức khắc cảnh cáo rằng mọi sự vi phạm sẽ bị nghiêm phạt.
Vào ngày 11 tháng 12, Hội Đồng đã thông qua thêm một nghị quyết cảnh báo rằng rừng
núi bây giờ thuộc quyền kiểm soát của nhà nước và nhắc nhở lại lời cảnh báo của
vua. Lo ngại đến sự tàn phá lớn lao về gỗ các loại, Hội Đồng cũng đã cảnh báo các
cộng đồng rằng họ không thể chỉ đơn giản lấy quyền kiểm soát các khu rừng hay các
vùng đất trống thay vì, qua phương tiện pháp luật, đáng lẽ họ phải đưa ra toà
chống lại sự chiếm đoạt những cái mà họ cảm thấy cần phàn nàn để biện hộ.
Rõ ràng là những cảnh báo như vậy
đã có hiệu quả không đáng kể. Trong tháng Giêng 1791, Raymond Bastouth, thống đốc
của tỉnh bang Aude đã diễn tả nỗi lo lắng về ban quản trị hành chánh tỉnh của ông
rằng nhân dân đang than vãn trên mọi khía cạnh về cái sự tham lam sai trái của đám
nông dân, những người đang suốt ngày khai phá rừng cây và những vùng đất đai không
trồng trọt được trên các sườn núi mà họ không thực sự biết rằng đất này sẽ chỉ
có thể khai thác một tới hai năm mà thôi. Sự khai quang nguy hại này đã tăng tốc
kể từ sau khi có sự xoá bỏ thể chế phong kiến bởi vì người dân ở miền quê tưởng
tượng rằng các xã ấp đã trở thành chủ nhân của những vùng đất bỏ hoang, rằng những
cựu lãnh chúa đã bị tước đoạt hết cùng lúc khi họ mất hết quyền tư pháp.
Ông ta cũng ghi nhận rằng rõ ràng
sỏi đá bị đẩy trôi xuống suối làm tắc nghẽn dòng chảy và làm cho chúng tràn lan qua cả vùng đất tốt. Tuy nhiên, các giới chức địa
phương và các hội đồng cách mạng kế tục đã thất bại trong những cố gắng của họ
để ngăn lại việc chặt phá cây rừng quá mức và việc xâm chiếm các vùng đất
hoang. Mặc dù các văn thư chính thức đến từ Paris nhắc nhở các
thành phố về luật lệ bảo vệ cây rừng ban
hành từ 1669 và 1754 và được tái khẳng định năm 1791, việc đốn cây rừng vẫn tiếp
tục không được kiểm tra.
Để đáp lại hàng đống những báo cáo
tương tự từ mọi miền khắp nước Pháp, Hội Đồng Quốc Gia đã tìm cách giải quyết vấn
đề ai là chủ của các vùng đất hoang với
nghị quyết ngày 22 tháng Hai 1791. Tại đây,
Hội Đồng gặp khó khăn trong việc giải quyết sự trái ngược giữa chính sách của họ
về thương lượng đất đai theo các nguyên tắc chủ tư hữu và các giả định phổ thông
cổ xưa về quyền xử dụng tập thể. Pháp luật ghi rõ rằng các cựu lãnh chúa không
còn bất cứ quyền hạn gì nữa để coi những đất trống là của riêng. Vì thế, chúng đã
trở thành đất công trừ phi viên lãnh chúa
có thể chỉ ra sự sở hữu trước năm 1789 ,
hoặc đã đưa nó vào đất sản xuất trong ít nhất 40 năm trước đó hay qua luật pháp,
tập quán, thân phận hay qua việc xử dụng địa phương hiện hữu từ thời đó. Tuy
nhiên, ngay cả khi lãnh chúa chứng minh được sự sở hữu này, thì quyền xử dụng công
cộng, đặc biệt để thả gia súc gặm cỏ và lấy gỗ cũng phải được tôn trọng. Pháp
luật không tránh khỏi phát sinh thêm lầm lẫn và sự phản đối trong việc gây nên
chứng cứ đầy đủ cho quyền sở hữu trước đó. Vùng đất ngoại biên không thể trồng
trọt nhưng chứa đựng động vật và thực vật phong phú này đã do những người quê nghèo khổ và thèm khát một mảnh đất có thể cày cấy chiếm
giữ và khai quang. Việc tiếp tục các cuộc khai quang đất đai thời hậu 1789 như
vậy đã tạo nên một huyền thoại kéo dài nhanh chóng cho rằng Cách mạng đã buông lỏng những thái độ
tham lam của đám nông dân đối với môi trường của họ và rằng Cách Mạng là một thảm
họa về sinh thái. Thực tế phức tạp hơn.
Các nhà làm luật trong Hội Đồng
Quốc Gia bị mắc kẹt giữa cam kết của họ đối với tinh thần tôn trọng tài sản tư
nhân, sự phòng bị khó khăn của họ về sức mạnh của nông dân gắn chặt vào những thực hành tập trung và sự khiếp sợ
của họ đối với sự hư hại môi trường trong nhiều vùng khắp nước. Sự lầm lẫn này rõ
rệt trong 2 đoạn cốt lõi của luật pháp được thông qua vào cuối tháng Chín
1791. Thứ nhất, Hội Đồng đã bỏ phiếu cho
“điều luật về vùng sâu vùng xa” ngày 28 tháng Chín. Trong quyết nghị về ‘tài
sản vùng quê, các thực hiện và chính
sách của nó’ này, một trong những hành động cuối cùng của Hội Đồng Quốc
Gia, các đại biểu Cách Mạng đã làm một tuyên bố lớn lao về chủ nghĩa điền địa cá nhân. Họ quyết định rằng những hành
động tập thể về luật du mục cho phép đàn gia súc di chuyển qua các khu rừng và
đồng cỏ hoang, cho phép đàn gia súc đi vào các vùng đất tư nhân bỏ hoang, không
thể bắt buộc chủ nhân đàn gia súc rời bỏ
chúng như một phần của đàn gia súc công cộng, các cá nhân cũng không thể bị ngăn
cản trong việc rào che đất của họ để xử
dụng riêng tư. Tuy vậy họ cũng nhận biết sự hiện hữu liên tục của những hoạt động
tấp thể. Hôm sau, Hội Đồng thông qua điều luật về rừng cây được mong chờ đã lâu.
Điều này cần thiết dẫn tới một sự tái tuyên bố các điều khoản chính của điều luật
Colbert 1669 với một sự tái tổ chức hành chánh để tương xứng với các ban bộ mới.
Tuy nhiên, đúng hơn với những nguyên tắc phát biểu từ năm 1789, Hội Đồng kiên
quyết rằng những khu rừng tư nhân sở hữu sẽ do chủ nhân toàn quyền thu xếp để làm
điều mà họ muốn làm.
Tầm nhìn của Hội Đồng về một xã hội
mới khá nhanh gọn và đầy tham vọng, và những cam kết của họ đối với sự tự do chính
trị đã tạo điều kiện cho một sự tiết lộ đầy bi hài cho những giả thiết mới về
quyền công dân và các quyền hạn của con
người. Rõ ràng tại một số khu vực thành phố và vùng quê trước năm 1789, những
giả thiết mới về luật pháp đặt căn bản trên quyền địa phương đã là sự thay đổi về văn hoá
bị xói mòn và thách thức nhất của thời Cách Mạng. Chẳng hạn, tại cộng đồng
nhỏ bé Fraisse ở Tây Nam Narbonne, viên xã trưởng đã có lần diễn tả sự kinh hãi của dân làng của ông về một hành vi
của một lãnh chúa, Nam tước de Bouisse và
những đứa cháu của ông ta, những người thể hiện sự bạo lực
thể chất đã đi khắp nơi với cây gậy to lớn trong tay. Vào năm 1790, ngược
lại, ông nam tước 86 tuổi này đã khiếp sợ vì hành vi của những người nông dân ”trước
đây rất hiền lành” tại Fraisse: người ta đã thẳng thừng từ chối trả lệ phí cho
lãnh chúa hay thuế thập phân. Ông nam tước nói trong tuyệt vọng:
“Tôi đã yêu mến và tôi vẫn tiếp tục yêu mến ngươì dân Fraisse như tôi yêu
mến các con cái tôi. Họ thật ngọt ngào và chân thật theo cách của họ, nhưng điều
gì thay đổi bất ngờ đã xảy đến trong họ? Mọi thứ tôi nghe thấy bây giờ là: “lao
động không lương, khai sáng, dân chủ, quý tộc”, những từ ngữ mà theo tôi là những từ ngữ man rợ và tôi không thể dùng
chúng. Những tên chư hầu cũ giờ tin tưởng
rằng chúng có uy lực hơn các vị vua chúa.”
Sự tham gia bầu cử chỉ là một phần của nền văn
hoá chính trị mới mẻ này. Người đi bầu đã
đi đến các vị trí bỏ phiếu hiếm khi cao tại các cộng đồng nhỏ và các khu lân cận
nơi người ta đã biết trước ai sẽ thắng cử vì sự chọn lựa đã được biểu lộ tại nơi
công cộng, chợ búa, quán rượu và sau các buổi lễ nhà thờ. Trên toàn quốc, sự tham gia bầu cử cũng thường
thấp: có lẽ khoảng 40% cho cuộc bầu cử Đại Hội Đồng (mặc dù có nơi lên đến 85%
tại các làng xã ở vùng Normandy thượng.) Nhưng những con số trên không ám chỉ một
sự thờ ơ: số lượng người đi bầu thực hiện
quyền bầu phiếu của họ thường thường thấp do một hệ thống rườm rà của sự bỏ phiếu
gián tiếp, khi các đơn vị bầu cử bỏ phiếu bầu những người đại diện được lựa chọn,
sau đó những người này mới lựa chọn các ứng cử viên. Hơn nữa, bỏ phiếu chỉ là một
trong những phương cách mà người dân Pháp thực thi chủ quyền của họ. Một cách khác là khối lượng khổng lồ các thư tín
không chính thức đi chằng chịt khắp nơi trong nước. Chúng di chuyển theo hàng dọc
từ các cử tri đến đại biểu của họ ở Paris và ngược lại, đồng thời theo hàng
ngang, đặc biệt giữa các câu lạc bộ Jacobins với nhau (hay còn được mệnh danh là
hội thân hữu của Hiến Pháp). Câu lạc bộ
Jacobins đã được thành lập từ một số các đại biểu cấp tiến có tên là “hội thân
hữu Hiến Pháp” vào tháng Giêng 1790 và không lâu sau đó được biết đến qua cái tên
của cái trụ sở của nó trong một tu viện cũ. Một trong những hoạt động chung tại
hàng ngàn câu lạc bộ Jacobins và những hội phổ thông khác là sự trao đổi thư từ
có những tập họp tương tự trong cả nước.
Với cái kinh nghiệm lập đi lập lại của những người tập trung bỏ phiếu tại
các cuộc bầu cử, những khoảng trống công
cộng mới đã được thiết lập.
Trong khi đám câu lạc bộ Jacobins
thường giới hạn trong những công dân “tích cực”, tại Paris và những nơi khác có những
diễn đàn mang tính xã hội cách mạng khác
đã phát triển đến những người “tiêu cực.” Tại Paris, câu lạc bộ Cordelier do
Danton và Marat lãnh đạo chào đón tất cả mọi người muốn tham gia. Từ sự kiên quyết rằng mọi công
dân cấu tạo nên chủ quyền nhân dân phát triển một nhận thức về “dân chủ” như một
hệ thống chính trị toàn vẹn hơn là theo kiểu giống như nưóc Anh và Hoa Kỳ, chỉ
một bộ phận của chính quyền được ngang bằng với nghị viện và quyền hành pháp. Các
phần tử “ái quốc” ngày càng tự xưng là :
“những nhà dân chủ”.
Phụ nữ cũng được chào đón ở một vài câu lạc bộ.
Tại Paris, “ Hiệp hội các công dân huynh đệ nam nữ” đã tập họp được tới 800 nam nữ tại các buổi họp, đã tìm cách hội tụ các phụ
nữ vào các hoạt động chính trị. Nữ quyền cũng được các nhà hoạt động như Olymoe
de Gouges, hầu tước de Condorcet, Etta Palm và Théroigne de Méricourt biện hộ;
và hội xã hội Cercle đã thúc đẩy quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, quyền ly dị có hiệu
lực và xoá bỏ luật thừa kế giành ưu tiên cho con trai đầu lòng. Ít nhất, cái đòi
hỏi cuối cùng trên đã được nhanh chóng thừa nhận, mặc dù khó khăn hơn với việc
bẻ gãy uy quyền của các vị trưởng lão đại quý tộc để củng cố vị trí kinh tế cho
phụ nữ. Vào ngày 15 tháng Ba 1790, Hội Đồng Quốc Gia đã quyết nghị:
“Điều 11: Mọi đặc quyền, mọi thể chế phong kiến và tài sản quý tộc phải
bị xoá bỏ, quyền thừa kế và nam quyền liên hệ đến các thái ấp quý tộc, lãnh địa, và tổ tiên, sự phân phối bất bình đẳng với lý
do về phẩm chất của một ai đó đều bị xoá bỏ.”
Kết quả là, Hội Đồng chỉ thị rằng
mọi tài sản thừa kế mà chúng rơi vào trong
trường hợp được tính từ ngày ban
hành nghị quyết hiện tại, cho dù trực tiếp hay thế chấp, cá nhân hay đại lý cai
quản, không thuộc phẩm chất cựu quý tộc cá nhân và quyền sở hữu, chúng sẽ được chia xẻ
giữa các người thừa kế theo luật pháp, thân thế và tập quán đã được quy định về
sự phân chia tài sản giữa các công dân.
Bộ luật đã có một va chạm đầy kịch
tính trong những khu vực (hầu hết tại miền Nam và vùng Normandy) nơi quyền tự
do di chúc luôn ưu tiên cho con trai đầu lòng. Ngược lại, tại những vùng phía Tây
như Maine và Anjou, sự thừa kế đồng đều đã là quy chế bình thường.
Sự trái ngược giữa những hứa hẹn
phổ thông và bao quát của bản Tuyên Ngôn về Nam Nhân quyền và quyền Công Dân và
những loại trừ ẩn nấp trong điều luật tiếp theo đã không che giấu được các nhà
hoạt động phụ nữ. Vào năm 1791, de Gouges đã ra mắt một hợp đồng xã hội phác thảo
về những dàn xếp hôn nhân quan tâm tới con cái và tài sản và một bản Tuyên Ngôn
Nữ Quyền và quyền nữ công dân:
“Điều 1: Phụ nữ được sinh ra trong tự do và bảo tồn bình đẳng với nam
giới trong mọi quyền hạn. Sự phân biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trong lợi
ích chung…
Điều VI: Pháp luật phải là sự biểu
lộ ý nguyện chung. Mọi nam nữ công dân phải phụ họa với tính cách cá nhân hay
qua đại diện của họ trong sự cấu thành luật pháp. Nó phải tương tự cho mọi người:
Mọi nam nữ công dân đều bình đẳng dưới con mắt luật pháp; nó cũng phải có hiệu
lực cho mọi phẩm giá, vị trí và nghề nghiệp công cộng tuỳ theo khả năng của mỗi
người và không có sự phân biệt nào khác hơn ngoại trừ phẩm cách và tài năng của
họ.”
Sự tham gia của nam nữ công dân vào
đời sống xã hội tại các câu lạc bộ và các cuộc bầu cử như vậy chỉ là một trong
các phương tiện mà qua đó cuộc đấu tranh trên cái bản chất của Cuộc Cách Mạng
được diễn tả. Vào đầu năm 1789, có lẽ trong cả nước có khoảng 80 tờ báo. Qua mấy
năm sau chừng 2000 tờ khác ra đời, mặc dù
tới 4 phần 5 trong số đó xuất bản không quá 12 ấn bản. Việc đọc báo của công chúng đã tăng gấp ba lần
trong ba năm. Báo chí phản Cách Mạng cũng
tăng trưởng như đối thủ cùng một phương cách tự do.
Tờ báo bảo hoàng cực đoan “Thân Hữu
của Vua” đã truyền bá ra một trong những đổi mới bền bỉ nhất của ngôn ngữ chính
trị Cách Mạng: đó là hai từ ngữ “cánh tả và cánh hữu” liên quan đến
các nhóm đại biểu có cùng tư tưởng tụ tập chung với nhau tại các băng ghế
trong sảnh đường của Hội Đồng Quốc Gia.
Sự xuất bản sách vở đã giảm xuống:
có 216 tác phẩm được in ra năm 1788, nhưng năm 1791 chỉ có 103. Mặt khác, trong
cùng thời kỳ, số lượng các bài ca mang tính chính trị đã gia tăng từ 116 lên
308, kể cả bài hát “ҫa ira” đã từng được hát lần đầu tiên tại khu vực Champ de
Mars khi chuẩn bị cho buổi đại lễ Liên Bang 1790. Vì đây là một xã hội mà những
diễn đạt ý kiến sôi động nhất được chuyên chở qua lời nói và ca từ hay qua hàng
ngàn những hình ảnh được chạm khắc thô sơ mà chúng được lưu hành trên khắp cả
nước trong sự phổ thông hoá các hình ảnh về những cái mà Cách Mạng đã đạt được.
Cũng cùng vào lúc cử hành Đại Lễ Liên Bang trong tháng Bẩy 1790 lại có những trò
chẳng hạn như “Các buổi tang lễ cho chế độ quý tộc” được tổ chức như một trò hề
diễu cợt tại Champ de Mars:
“Một khúc gỗ được hoá trang kỳ lạ như một linh mục: băng giải, mũ chỏm,
aó choàng ngắn, mọi thứ đều có mặt. Một hàng dài những người đưa đám đi theo đám
rước này, thỉnh thoảng họ lại đưa tay lên trời và khóc lóc với một giọng nức nở
khàn khàn …”
Qua những phương cách diễn đạt tư
tưởng như vậy, cả triệu người đã học được ngôn ngữ và thực thi chủ quyền quần
chúng và trong một chu kỳ kéo dài của tình trạng đất nước yếu kém, họ bắt đầu đặt
nghi vấn về những giả thiết đã ăn sâu tận xa xưa về sự thánh thiện và lòng nhân
từ của hoàng gia và về vị thế của họ trong phẩm trật xã hội. Vào giữa năm 1791, Hiến Pháp đã gần hoàn thành.
Đây là một hành vi cân bằng tế nhị giữa nhà vua (với quyền bổ nhiệm các bộ trưởng
chính phủ và các nhà ngoại giao, cũng như quyền tạm thời phủ quyết luật lệ và
quyền tuyên bố về chiến tranh hay hoà bình) và ngành lập pháp ( với quốc hội độc
viện, và các quyền về tài chánh và dự thảo luật pháp). Tình trạng khó xử cho vua Louis là làm sao
chuyển dịch những tiếng nói đối nghịch của một quần chúng có chủ quyền, cho đến
lúc này vẫn là thần dân của ông, những người ngày càng chia rẽ về những thay đổi
mà Cách Mạng đã tạo nên và đường hướng tương lai mà Cách Mạng nên theo.
No comments:
Post a Comment