Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799
by Peter McPhee
by Peter McPhee
Chương 8: Kết thúc cuộc Cách Mạng 1795-1799
Trong số những người bị tình nghi khác được thả ra sau tháng
Thermidor có nhiều người trong nhóm Sans-Culottes, kể cả Franҫois-Noἕl Babeuf.
Babeuf đã bị bỏ tù vào đầu năm 1793 vì tội giả mạo giấy tờ đăng ký tài sản để cấp
phát đất đai cho người nghèo. Khi đang ở trong tù, ông đã từ bỏ cái tên Camille
thừa nhận trước đó để đổi thành Gracchus, đặt theo một nhà cải cách đất đai từ
thời La Mã thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên (BC). Gracchus Babeuf lúc này nhanh
chóng thiết lập tờ báo “Tribun du people (Diễn
đàn nhân dân)” để công khai các yêu sách của nhóm Sans-Culottes. Ông ta cũng là một trong số những dân quân tưởng
tượng rằng sự chấm dứt thời kỳ khủng bố sẽ mang đến một luồng gió tự do mới cho
sự khai mở phổ thông và sự thực thi Hiến Pháp 1793.
Sự sụp đổ của Robespierre đã được chào đón trên toàn quốc như
biểu hiệu cho sự chấm dứt những vụ hành quyết quy mô. Cái thành ngữ “hệ thống
khủng bố” được Barère xử dụng lần đầu vào 2 ngày sau đó. Lịch sử của thời khủng
bố, thực ra có thể nói là của chính Cách Mạng, vì thế kết thúc với sự sụp đổ của
chính quyền Robespierre. Cho sự tốt đẹp
trên khắp nước Pháp, chế độ mới của “Hội Đồng Quản Trị” đã đại diện cho nhiều
thứ họ muốn: sự bảo đảm cho những thành quả Cách Mạng và ngọn lửa âm ỉ của nền
chính trị phổ thông. Thí dụ vào tháng Giêng 1795, Ủy Ban Giám Sát tại Lagrasse thuộc tỉnh Aude đã ăn mừng sự chấm
dứt khủng bố trong một cuộc nói chuyện với Nghị Viện:
“Cuộc Cách Mạng ngày 9
Thermidor được coi là sự tái sinh sự yên bình trong trái tim của người dân
Pháp, những người đã thoát ra khỏi những sai lầm mà cái chủ nghĩa khủng bố đã dẫn
dắt họ vào và đã đập tan cái uy quyền sắt thép mà tên Robespierre vô lại đã điều
khiển họ như các thần dân của ông vua. Họ đang thưởng thức những thành quả từ công
việc tuyệt vời của quý vị, tiến bước với
niềm vui trên con đường đạo đức. Những người trước đây đã làm đổ máu những nạn
nân vô tội bị lựa chọn chỉ vì tính đố kỵ và số mạng đã mang tới pháp trường bao
nhiêu công dân chăm chỉ và chịu đựng bị nhầm lẫn là có tội. Nước Pháp giờ tự do, hạnh phúc và
thắng lợi.”
Vẫn có những người tìm cách trách cứ Robespierre vì những màn
khủng bố quá đáng lại chính là những công cụ hay đồng loã của ông trong những
trò khủng bố đó. Những người khác dù chào mừng việc bãi bỏ những chế ngự tự do
lại tỏ ra cay đắng vì những kinh nghiệm của họ rằng họ đã buông lơi cho một giai
đoạn với những trả thù lẩn quẩn. Chắc chắn, điều này có thể không là một sự trở
lại dễ dàng của các nguyên tắc và sự lạc quan thời 1789. Cuộc Cách mạng đã mất
đi sự trong sáng vô tội, và những người cai trị nước Pháp lúc này là những kẻ
thực dụng cứng rắn. Những chế độ thời hậu Thermidor có thể có 2 đối tượng căn bản.
Thứ nhất, đó là thể chế cộng hòa, nhưng trên hết mọi thứ khác là được hướng dẫn
bởi nhu cầu kết thúc cuộc Cách Mạng, rõ
ràng nhất qua sự trấn áp những nguồn gốc của sự bất ổn mà phe nhóm Jacobins và Sans-Culottes
đại diện.Những kẻ (được gọi là) Thermidorian là những người cứng rắn, nhiều người
trong số họ là những cựu Girondins đã từng
sống qua thời khủng bố trong tình trạng đối nghịch ngầm, và đã quyết định rằng
trải nghiệm đó không thể bị lập lại. Thứ hai, cái lý do tuyên chiến mà những
nhà cựu lãnh đạo của họ là Brissot và Vergniaud vạch ra rằng đây là một cuộc
chiến tự vệ chống lại sự hung bạo độc tài mà nó tự nhiên trở thành cuộc chiến
cho tự do có sự tham gia của những kẻ bị áp bức khắp Âu Châu, thay vào đó sẽ phát triển thành một cuộc chiến
bành trướng lãnh thổ cho một “đại quốc gia”.
Trong vòng một tháng sau cái chết của Robespierre, khoảng 200
câu lạc bộ Jacobins vùng miền đã phẫn nộ than trách về những hậu quả không lường
trước. Vì bên cạnh những giới hạn về trình độ của các toà án Cách Mạng mà cuối
cùng đã bị giải thể vào tháng Năm 1795, cùng với sự hành quyết
Fouqiuer-Tinville, một công tố viên của năm Cách Mạng ll, một phản ứng xã hội đắng
cay được buông lỏng. Hành vi “khủng bố trắng” này là một đáp trả mang tính trừng phạt của giới ưu tú về chính
trị và xã hội cho những chế ngự và sợ
hãi mà họ đã phải trải qua. Đám Jacobins và Sans-Culottes hung hăng bị bắt giữ
tại Paris. Đám Jacobins ở các thị trấn
vùng miền thì bị ám sát và chính câu lạc bộ Jacobins đã từng là xương sống của
đời sống chính trị của giới tư sản yêu nước trong suốt cuộc Cách Mạng cũng phải
đóng cửa vào tháng Mười Một.
Giọng điệu thù hận của cái phản ứng xã hội này đượcv biểu lộ
như tại Souriguières và Gaveau với bài ca “Lòng
dân thức tỉnh (Le Réveil du people).” Tại Bordeaux, bài ca đã nổi tiếng
trong số những người bảo hoàng trỗi dậy. Thí dụ, vào giữa năm 1795, những người
trẻ tuổi đã tụ họp trước cửa đại hí viện để la ó và huýt sáo phản đối vở kịch chống giới giáo
sĩ có tựa đề “Jean Calas,” với sự đòi hỏi là các nghệ sĩ phải hát bài “Le
Réveil du people.” Bài ca bị cấm đoán một năm sau đó, sau khi chính quyền trở
nên lo sợ rằng lời kêu gọi vấy máu trả thù có thể hành xử như một sự tung hỏa
mù cho việc làm sống lại chế độ quân chủ.
Cuộc Cách Mạng văn hoá của năm thứ Hai đã qua. Sự tốt lành đã
bắt đầu một cách có ý thức để xử dụng lại các từ ngữ “thưa Ngài, thưa phu nhân”
thay cho từ “công dân.” Những năm này
người ta cũng thấy ngưng xử dụng từ ngữ “tu (ngôi thứ hai số ít)” như một hình
thức chính trị của văn nói đến những tên tuổi Cách Mạng và ngay cả tình trạng sa sút trong nhiều khu vực.
Những kiểu mẫu liên lạc cũ đã nhanh chóng tự thiết lập lại: Vào năm 1795, các tác phẩm văn chương mới tăng gấp đôi, đa
phần là những chuyện tình cảm và những chuyện trinh thám, trong khi số lượng
các bài ca chính trị hạ giảm từ 701 xuống còn 137. Trong những đường lối song hành đối với lịch
sử của ngành báo chí và hội hoạ, lịch sử xuất bản mang dấu ấn của thời kỳ kinh
tế chính trị, được giải phóng bắt nguồn từ những sự kiểm soát của những đoàn thể
có đặc quyền của các nhà xuất bản Paris. Các tác giả đã thưởng thức những năm
tháng tự do tư tưởng chưa từng có tiền lệ sau 1789 cho tới khi có những chế ngự
chính trị cứng rắn của chính sách khủng bố. Với sự lật đổ thời kỳ khủng bố
tháng Bẩy 1794, các tác giả một lần nữa lại thương thảo với các nhà xuất bản
như những đại lý hợp đồng tự do. Tuy nhiên, bây giờ chế độ lại cấp phát hỗ trợ
cho những người ủng hộ văn chương của họ. Báo cáo của Grégoire ngày 17
Vendémiaire lll (5 tháng Mười 1794) mà Carla Hesse diễn tả như “văn hoá
Thermidor,” bênh vực cho một chính sách cố ý không tính toán đến những giá trị
đúng đắn về chính trị và văn hoá.
Đám con trai và con gái của những người thích làm tốt coi diễn
tả sự coi thường về vấn đề ăn mặc đối với đám Jacobins tầm thường bằng đi dạo
như những công tử, những mệnh phụ và những cô gái “mạ vàng” hư hỏng đi diễu phố
để tìm cơ hội trả thù lên đám Sans-Culottes. Mặc cho điều luật ngày 2 Prairial
ll (21 tháng Năm 1795) ấn định chỉ có huy hiệu ba màu được phép chính thức là dấu
hiệu của sự liên kết chính trị, tại Bordeaux, các cô gái loại mạ vàng phe bảo
hoàng đã thich thú khi mang cái dấu hiệu trắng trên người và đi đánh đập bất cứ
người Sans-Cilottes nào gặp trên đường phố. Cây tự do đã được trồng trong thời
kỳ khủng bố sẽ ít có cơ hội để lớn lên. Sự buông lỏng những chế ngự kinh tế và
xã hội trong việc phô bày sự giàu có cũng cho phép sự xuất hiện lại việc tiêu
xài thận trọng, những tiệc tùng đáng kể ở những nơi mà giới giàu có cho thấy sự
thù ghét đối với chính sách khủng bố và biểu hiệu của những nỗi lo sợ trước đó
bằng sự xuất hiện với những cần cổ cạo trắng và những giải băng đỏ đeo quanh cổ. Ngành đĩ điếm phục vụ các thân chủ giàu có giờ
tái xuất hiện tại dinh thự Hoàng Gia.
Triển vọng xã hội của phe cựu Girondins và những người đứng
trung lập lúc này đã thống trị Nghị Viện là bằng chứng của cái chính sách giáo
dục của họ mà nó đã lùi bước kể từ cái cam kết Jacobins tới chương trình học đường
miễn phí và phổ thông. Điều luật ngày 3 Brumaire lV (25 tháng Mười 1795) cũng dự
định rằng: các thày giáo sẽ được trả lương từ học phí của học sinh, rằng những
đứa con gái sẽ được dạy những năng khiếu hữu dụng trong các trường riêng biệt,
và rằng chỉ cần trường học tại mỗi tổng thay vì ở mỗi xã. Những người trong nhóm
Thermidorians quan tâm hơn đến giáo dục ưu tú. Vào tháng Chín 1794, Trung Tâm
Giáo dục Lao Động Công Cộng (tới tháng Chín 1795 đổi tên là trường Kỹ Thuật Đa
Năng) được thiết lập vào kết nối các trường cơ khí chuyên biệt và trường quân sự.
Vào tháng Mười 1795, các học viện của chế
độ cũ, đã bị xoá bỏ vào tháng Tám 1793 như tập đoàn và học viện của giới tinh
hoa, giờ được thành lập lại với danh xưng
Học Viện Pháp.
Dưới thời kỳ khủng bố, sự hy sinh anh hùng của các trẻ em như
Bara và Viala đã được tưởng niệm, lúc này có những hành xử đối nghịch với đạo đức
được thừa nhận. Cái sảnh đường Paris 1795 trưng bày một bức tranh
do Pierre-Nicolas Legrand vẽ có tựa đề: “Một
hành xử tốt lành không bao giờ bị lãng quên (A Kind Deed is never forgotten).”
Bức này chào mừng Joseph Cange, viên sứ giả của nhà tù La Force trong thời khủng
bố. Xúc động vì sự khổ nhục của gia đình một người tù được tin tưởng để đi
giao một thông điệp, Cange đã biếu tặng
họ ít tiền riêng của ông với sự giả danh
rằng đó là tiền do người tù gửi về, và ông cũng làm như vậy đối với người tù. Chỉ
sau khi thời khủng bố qua đi và người tù trở về đoàn tụ với gia đình sự thật mới
được khám phá ra. Họ cũng tìm thấy rằng Cange đang nuôi nấng 6 đứa trẻ. Bức
tranh của Legrand là một trong một số bức tranh chân dung của Cange và không lâu sau thời Thermidor, có ít nhất 8 vở kịch kể lại câu chuyện xúc động của ông, một
trong chúng do Marin Gamas, tác giả của “Những
di dân trong những mảnh đất phía Nam (Émigré in the Austral Lands)”viết.
Tuy nhiên, mặc cho cái sức mạnh của phản ứng chính trị chống
lại chính sách khủng bố, đây vẫn là một chế độ cộng hoà gây chiến với chế độ
cũ. Một trong những đức tính vĩ đại nhất của Cange là 3 trong số trẻ em mà ông
ta nuôi nấng là con của người anh (hay là
em) rể đã hy sinh tại tiền tuyến. Một sự hỗn hợp tương tự giữa chủ nghĩa bảo
thủ xã hội và chủ nghĩa cộng hòa đã thấm vào những buổi lễ chính thức của Hội Đồng
Quản Trị, chẳng hạn như các lễ hội giới trẻ, cao niên, đôi lứa và lễ hội nông
nghiệp mà chúng được thay thế cho những lễ hội của Lý Trí và Thiên Nhiên của
phe Jacobins. Những lễ hội chính thức này thiếu vắng sự ủng hộ quần chúng và Hội
Đồng Quản Trị đã phải dùng đến sự cưỡng bức để áp đặt cái nhãn hiệu cộng hòa của
họ. Thí dụ, vào tháng Giêng 1796, một sắc lệnh của chính quyền yêu cầu bài ca
Marseillaise phải được hát trong tất cả các hí viện trước khi mở màn. Thỉnh thoảng,
những lễ hội tự phát đã xoay chuyển thời thế qua nhóm Jacobins:Tại Beaumont-de-Périgord
vào ngày 26 Thermidor V (13 tháng Tám 1797,) đám thanh niên trẻ đã đốt cháy một
hình nộm bằng rơm mà họ đặt tên cho nó là Robespierre. Tại Blois, lễ kỷ niệm
ngày 10 tháng Tám 1792 vào năm (Cách Mạng) thứ VI cũng có liên quan đến việc đốt
hình nộm Robespierre. Trong những cách
như vậy, hình Robespierre đã giúp nhân cách hoá những hình ảnh đẫm máu của thời
khủng bố cho những người cộng hòa ôn hòa cũng như những kẻ bảo hoàng.
Trong khi việc xoá bỏ kiểm soát kinh tế đã cho phép những sự
phô trương sự giàu sang đầy thù hận, sự chấm dứt việc ấn định giá cả vào tháng
Mười Hai 1794 đã làm lạm phát tăng vọt. Vào tháng Tư 1795, mức độ thông thường
của giá cả đã khoảng 750% trên mức năm 1790. Điều này trùng hợp với một mùa
đông khắc nghiệt: dòng sông Seine đóng băng hoàn toàn và đất đai bị chai cứng tới độ sâu nửa mét. Trong bối cảnh có những phản ứng
chính trị và xã hội, sự suy sụp kinh tế, phe nhóm Sans-Culottes đã làm một cố gắng
liều lĩnh cuối cùng để lấy lại thế chủ động. Những cuộc nổi dậy trong các tháng
Germnal và Prairial năm lll (Tháng Tư và Năm 1795) đã tìm được một cách hữu hiệu
một sự trở về với những hứa hẹn trong mùa thu 1793: cái mẫu mực của phong trào
Sans-Culottes. Với băng rôn “Bánh mì và
Hiến Pháp 1793” gắn trên mũ, đám người nổi loạn hô lớn cho sự trấn áp đám “leunesse
dorée (gái trẻ nạm vàng)” và đòi thả ra
những người Jacobins và Sans-Culottes đang bị giam giữ, và cũng đòi “giải thể
chính quyền Cách Mạng.” Van Deck, viên chỉ huy chi bộ Cité đã cảnh báo Nghị Viện:
“Các công dân mà tôi nói chuyện với họ
đòi hỏi có Hiến Pháp 1793. Họ đã mệt mỏi với những đêm chờ ngóng tại các cửa
hàng nướng bánh. Chúng tôi đòi tự do cho hàng ngàn người cha của các gia đình yêu
nước của chúng tôi, những người đã bị giam giữ từ mùng 9 Thermidor.” Phụ nữ
đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc nổi dậy này. Sau cuộc nổi dậy
Prairial, Nghị Viện đã mâu thuẫn ra sắc lệnh rằng họ đã vừa thao túng những con
người đáng kính qua việc xử dụng những yếu kém về giới tính của họ và rằng, trừ
phi họ tôn trọng ngay tức thì lệnh giới
nghiêm, họ sẽ bị quân đội trấn áp.
Sự thất bại của cuộc nổi dậy tháng Năm 1795 đã làm bung ra những
phản ứng sâu rộng đủ loại. Trên 4000 Jacobins và Sans-Culottes bị bắt giữ và
1700 bị tước đoạt mất các quyền công dân. Các trại tù được thiết lập tại
Seychelles và Guiana. Ngoài biến cố “Ngày
Cổ Áo Đen” vào tháng Bẩy 1795, khi đám Sans-Culottes và một số binh lính đã dùng ngày kỷ niệm đệ Lục
chu niên phá ngục Bastille để làm một cuộc trả thù chớp nhoáng đối với đám “gái
nạm vàng,” phong trào quần chúng Paris hầu hết im ắng. Tại phía Nam của đất nước,
những “đội quân của Jésus và Mặt Trời” nhắm riêng biệt vào đám Jacobins.
Trong một bầu không
khí như vậy đã gây hy vọng cho những người bảo hoàng, nếu không phải là sự trở
lại chế độ cũ, ít nhất cũng là một thể chế quân chủ lập hiến. Khi người kế nghiệp
vua, giờ được gọi là Louis XVll đã chết trong tù vì bịnh tràng nhạc vào tháng
Sáu 1795, ngưòi chú của ông, Bá tước de Provence, được cho là giữ danh hiệu
Louis XVlll. Từ Verona vào ngày 25 tháng Sáu, ông ta đưa ra một lời tuyên bố bảo đảm rằng sẽ không
có chuyện trở lại Hiến Pháp 1791 như một đường lối củng cố cuộc Cách Mạng. Quả
thực, ông liên hệ đến việc hoàn trả lại 3 tầng lớp xã hội cũ và vị thế của Giáo
Hội Công Giáo như cuộc Cách Mạng chưa từng xảy ra vậy. Xét đến sự thù ghét sâu đậm giữa những người
cộng hòa và những người bảo hoàng vào thời điểm 1795, có sự nghi ngờ rằng một sự
trở lại một bản Hiến Pháp 1791 cải biến, có thể nào không có một thất bại về
quân sự hay nội chiến còn đi xa hơn nữa không? Dù trong trường hợp nào thì lời
tuyên bố của Louis XVIII cũng đã chỉ mang đến hy vọng cho những người theo phe
bảo hoàng cố chấp nhất đang mơ về một sự quay về chế độ cũ. Bá tước d’Artois,
người em còn cố chấp hơn cả Provence, sau đó vào năm 1795 đã cố thử đưa một lực
lượng Anh Quốc tiến vào Brittany, nhưng đã thất bại trong việc liên kết với
lãnh tụ đám Vendée Charette như kế hoạch đự tính.
Quyết định mà Nghị Viện giải quyết để chống lại cả hai thách
thức của quần chúng và phe bảo hoàng, trên hết, đã rõ ràng trong những xếp đặt hiến
định, vì bây giờ không còn có lý do để quay trở về với nền dân chủ bình đẳng của
Hiến Pháp 1793. Chương trình nghị sự chính trị của Quốc Hội Nghị Viện đã được
Boissy d’Anglas, vị chủ tịch Nghị Viện làm rõ vào ngày 5 Messidor lll (23 tháng
Sáu 1795):
“Chúng ta cần được quản
trị bởi người tốt nhất trong chúng ta. Người tốt nhất là những người có học thức
cao nhất, và là những người chú tâm nhất vào việc duy trì luật pháp. Bỏ ra
ngoài những miễn trừ hiếm hoi nhất, chúng ta sẽ chỉ tìm thấy những con người đó
trong số những người, có sở hữu tài sản riêng, sẵn sàng hiến thân cho vùng đất
đai đã được đặt định. Nếu chúng ta ban cấp các quyền chính trị vô hạn cho những
người không có tài sản, và nếu những người này có bao giờ có một vị trí trong hội
đồng lập pháp, họ có thể khuấy động lên những xáo trộn hay làm cho họ bị xúi giục
mà họ không lo sợ hậu quả nào. Họ có thể thu thuế hoặc cho phép trưng thu thuế
phí gây nguy hiểm cho ngành mậu dịch và nông nghiệp.”
Các đại biểu lúc này có ưu thế trong Nghị Viện đi tìm kiếm một
sự cân bằng chính trị mà nó củng cố Cách Mạng và chấm dứt biến động quần chúng.
Theo ngôn từ của Boissy d’Anglas: “Chúng
ta đã sống qua 6 thế kỷ chỉ trong 6 năm.” Ông là người đã đóng góp vào việc
tạo khung sườn cho Hiến Pháp năm lll (tháng Tám 1795) mà nó hạn chế cử tri tham
gia vào các hội đồng bầu cử với các điều kiện
tài sản, tuổi tác, giáo dục cũng như giới tính. Đời sống chính trị phải
bị giới hạn trong hành động bầu cử: các
thỉnh nguyện thư, các câu lạc bộ chính trị và ngay cả các cuộc xuống đường bất
bạo động cũng bị cấm đoán. Các quyền xã hội được hứa hẹn trong Hiến Pháp 1793 bị
cắt bỏ. Ý nghĩa của sự bình đẳng giờ bị hạn chế thẳng thừng trong một xã hội mà
tài sản là nền tảng của trật tự xã hội:
Điều 3: Sự bình đẳng là một tình trạng mà trong đó luật pháp
tương đồng cho tất cả…
Điều 8: Sự khai thác đất
đai bằng mọi sự sản xuất, mọi phương tiện lao động và toàn thể trật tự xã hội
phụ thuộc vào việc bảo trì tài sản…”
Rõ ràng đối với những người phe Thermidorians là chỉ những ai
có một phần tương xứng trong xã hội mới đáng tín nhiệm để điều hành chính quyền;
đó là có tài sản, có học thức, đã đến tuổi chin chắn (trung niên) và là đàn ông
đã kết hôn. Trong khi Hiến Pháp 1795 ban cấp các quyền đi bầu cho tất cả nam giới
có trả thuế, các cử tri đoàn được giới hạn trong số 30,000 những người giàu có nhất trong số họ,
tức chỉ bằng một nửa con số năm 1791. Sự nhấn mạnh là để tránh khả năng có sự
thay đổi chính trị đột ngột: chỉ một phần ba trong số 500 đại biểu của Hội Đồng
được bầu chọn trong một lần bầu cử, một Hội Đồng Trưởng Lão ( nam nhân trên 40
tuổi có gia đình hay goá vợ) sẽ chuẩn nhận lập pháp, và một trong 5 giám đốc của
hành pháp được Hội Đồng Trưởng Lão chọn
trong một danh sách do 500 đại biểu đưa lên sẽ được thay thế hàng năm. Một
sắc lệnh tiếp theo đòi hỏi rằng 2/3 luật sắp tới sẽ do thành viên Quốc Hội Nghị
Viện lựa chọn.
Hiến Pháp được đem ra bỏ phiếu: có lẽ khoảng 1.3 triệu phiếu
thuận và 50,000 phiếu chống, coi như ít hơn Hiến Pháp 1793 trước đó. Chỉ có 208,000 người có ý bỏ phiếu thuận cho
nghị quyết Hai Phần Ba. Người ta biểu lộ
sự giận dữ rằng cái giá của trật tự xã hội là một nền dân chủ bị giới hạn. Một
phần cử tri tại Limogues đã phàn nàn rằng: “Chúng
tôi vô cùng bức xúc nhìn thấy bọn có của thay thế mọi thứ trong quyền công dân.”
Cử tri vùng Triel của Seine-et-Oise
lại kiên quyết rằng: “Các đại biểu không
nên được gọi là đại diện của đất nước. Họ chỉ là những người được ủy nhiệm của đơn
vị bầu cử đã chọn họ và có thể triệu hồi họ nếu thấy cần thiết.”
Trong bản chất của nó, Hiến Pháp này là một sự quay trở về các
điều khoản của Hiến Pháp 1791: nước Pháp lần nữa được quản trị bởi một chính
quyền quốc hội mang tính đại diện, đặt căn bản trên cơ sở khả năng sở hữu tài sản
và sự bảo vệ tự do kinh tế và dân sự. Chắc chắn, có những khác biệt giữa Hiến
Pháp 1791 và 1795. Chế độ Hội Đồng Quản Trị là một thể chế cộng hòa, không phải
quân chủ. Và những chia rẽ tôn giáo phải được giải quyết qua việc phân cách
Giáo Hội và nhà nước: “Không ai có thể bị
ép buộc phải đóng góp vào những chi tiêu của một tôn giáo. Nhà nước Cộng Hòa sẽ
không chi trả gì hết.”
Cái lạc quan thời 1789-1791 đã tan biến, cái niềm tin mà, với
sự giải phóng sự sáng tạo của con người, tất cả có thể khát khao được thực thi một
cách tích cực các khả năng của mình. Con người năm 1795 giờ có thêm một lời
tuyên bố về các bổn phận đối với hiến pháp của họ, cổ võ cho sự tôn trọng luật
pháp, gia đình và tài sản, Trong cái ý nghĩa này, hiến pháp đánh dấu sự kết
thúc của cuộc Cách Mạng. Hơn nữa, trong sự nhấn mạnh đến các quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân và lý thuyết tự do kinh tế và chính trị, hiến pháp có thể được
coi là để đánh dấu sự khởi đầu của thế kỷ 19.
Câu hỏi tồn tại là sau 6 năm xung đột, liệu sự tham gia và hy sinh của
quần chúng, những loại trừ và hạn chế do những người cộng hòa thực dụng, ngạo mạn
này áp đặt, có thể xúc tiến để đạt được sự vững mạnh chống lại các thành phần
lao động bất mãn tại cả thành phố và thôn quê và những kẻ bảo hoàng hay không?
Việc chế độ không được ưa chuộng và bị nghi ngờ vì nó đã loại trừ đại đa số dân chúng ra khỏi tiếng
nói chính trị hữu hiệu đưa đến hậu quả có một sự kháng cự dưới một hình thức khác: đó là sự từ chối
tham gia: Trong các cuộc bầu cử từng phần tháng Mười 1795, chỉ có 15% trong số
30,000 cử tri đi bỏ phiếu (và đã chọn lựa
gần như duy nhất đám bảo hoàng). Những cuộc bầu cử rộng rãi hơn cho các cuộc
bỏ phiếu địa phương, họ thường tẩy chay bầu cử như một dấu hiệu chống đối lại nền
cộng hòa tư sản. Sự kết hợp các đơn vị bầu cử xã lên thành thị xã ở cấp độ tổng
càng làm người dân vùng xa xôi xa cách Hội Đồng Quản Trị hơn: Theo lời của
Georges Fournier liên quan tới Languedoc: “Đám quý tộc ti tiện đã thống trị các
tổng quận một cách vô hồn.” Sự ép buộc rút lui của nông dân và thợ thủ công khỏi
đời sống chính trị đã không biểu lộ một khuyết điểm trong nền chính trị phổ
thông. Tại miền Nam, những hận thù âm ĩ
đã được khơi dậy vì những chính sách của Hội Đồng Quản Trị qua sự tấn công trực
tiếp lên con người và tài sản của nhóm Jacobins hay những đại diện địa phương của
chế độ mới. Tại đây và miền Tây, có tới 2000 thành viên Jacobins bị những băng
đảng “khủng bố trắng” sát hại: các nạn nhân là những người giàu có bỏ tiền ra
mua tài sản quốc hữu hoà và thường là dân Tin Lành.
Bằng cách loại trừ đám bảo hoàng và người nghèo ra khỏi diễn
tiến chính trị và bằng việc giới hạn diễn tiến tham gia bầu cử, Hội Đồng Quản
Trị đã tìm cách tạo nên một thể chế cộng hòa đặt nền tảng trên tài năng và có
tài sản trong xã hội. Để tránh một ủy ban hành pháp mạnh với vết nhơ Jacobins của
nó, có những cuộc bầu cử từng phần thường xuyên cho một hội đồng 500 đại biểu
và sự luân chuyển giữ quyển hành pháp. Sự phối hợp một nền tảng xã hội thu hẹp
và sự củng cố nội bộ đã làm chế độ phải đu dây giữa các đồng minh chính trị của
2 cánh tả hữu để mở rộng sự kêu gọi của nó và buộc họ phải trông cậy vào sự đàn
áp khắc nghiệt các đối lập và việc xử dụng lực lượng quân sự. Vì thế, chế độ đã
tuyên bố, vận động cho Hiến Pháp 1793 là một trọng tội và vào tháng Ba 1796 đã
hạn chế thẳng thừng sự tự do báo chí và lập hội, sau khi đã kêu gọi Napoleon
Bonarparte đến để ép buộc câu lạc bộ Panthéon tại Paris nơi có tới 3000 hội
viên Jacobins phải đóng cửa.
Một cuộc nổi dậy của phe bảo hoàng vào ngày 13 Vendéminaire
IV (5 tháng Mười 1795) đã hy vọng tận dụng được sự ác cảm quần chúng đối với điều
luật “Hai Phần Ba” nhưng đã bị quân đội dưới quyền Napoleon Bonaparte trấn áp
sau cuộc chiến đấu dữ dội để lại hàng trăm người chết. Cuộc đảo chánh cũng thất
bại bởi vì giới lao động Paris, cho dù có thù ghét chế độ cộng hoà tư sản đến
đâu, cũng từ chối hoà nhập với đám bảo hoàng. Tuy nhiên, nhiều dân lao động ở
những nơi khác vẫn còn hối tiếc cái chết của liên minh hoàng gia và Giáo Hội, nếu
không phải là chế độ cũ. Thí dụ vào 1795, La Rochelle đã quá nghèo đến nỗi thị
trấn đã phải tạm ngưng dịch vụ xe chuyển thư từ công văn vì không còn đủ tiền để
mua thực phẩm cho ngựa. Ngành thương mại từ từ vực dậy: vào 1796, có 99 tàu bè đã đến cảng so sánh với 25 trong 1792, bao gồn
các tàu chở lúa mạch, thuốc lá, vải vóc và đường từ Hoa Kỳ đến. Tuy nhiên,
không có gì đáng ngạc nhiên, trong bối cảnh của sự suy sụp kinh tế vì chiến
tranh liên tục và sự xóa bỏ chế độ nô lệ, có nhiều thí dụ từ La Rochelle rằng
người dân công khai ủng hộ việc quay lại chế độ quân chủ trong những năm
này. Những người khác hối tiếc về sự mất đi những thói quen của đời sống thường ngày thời trước Cách Mạng.
Vào 7 Brumaire Vll (28 tháng Mười 1798), 25 cô gái tuổi 16-20 được thuê mướn
làm trong một xưởng dệt tại trại tế bần La Rochelle đã từ chối làm việc vì đó
là ngày Chuá Nhật. Cũng trong năm, 44
người, hầu hết là phụ nữ tuổi từ 15 – 75 đã bị bắt giữ sau một buổi thánh lễ do
Baptiste Chain 29 tuổi, một người bán giày cử hành. Một bích chương tại La Rochelle vào năm
1798 cảnh báo:
“Trưng binh, nếu bạn bỏ
nó, bạn là thằng hèn. Bạn có thể nào chấp nhận cha mẹ bạn mất đi những bàn tay
lao động vì sự nhập ngũ tìm vinh quang trên chiến trường để chiến đấu cho ai?
Cho những kẻ thèm khát xương máu của bạn? Họ chính là những kẻ mà bạn rời nhà để
đi chiến đấu cho. Đúng, chúng ta cùng tham gia, nhưng tham gia để tận diệt cái
chính quyền mà mọi chính quyền Âu Châu ghê tởm, ngay cả những chính quyền man rợ
nhất.”
Hội Đồng Quản Trị đã kế thừa một vấn đề tôn giáo lớn lao.
Không chỉ hầu hết các linh mục từ chối hay rút lại lời hứa tuyên thệ với Hiến
Pháp Dân Sự cho giới Giáo Sĩ 1791, nhưng những màn đày ải lưu vong, cầm tù và
hành quyết những linh mục này đã tạo nên
một đội quân giáo sĩ hận thù, đắng cay tại biên giới nước Pháp. Tại nhiều khu vực,
các linh mục tuyên thệ đã không thể vượt qua nổi sự giận dữ địa phương với sự
ra đi của các linh mục quản xứ “tốt” và trong bất cứ trường hợp nào, đơn giản
là có quá ít giáo sĩ để cung cấp các nhu cầu tâm linh: Vào 1796, có lẽ có khoảng 15,000 linh mục cho
40,000 giáo xứ. Đối với những người trong Hội Đồng Quản Trị, vấn đề tôn giáo
trên hết là một vấn đề trật tự công cộng: không tín nhiệm sự cuồng tín nhưng nhận
thức sự khao khát lan rộng về một sự tái cơ cấu cộng đồng tâm linh. Vào ngày 11
Prairial lll (30 tháng Năm 1795) chế độ đã cho phép mở cửa lại các nhà thờ đã
đóng trong thời khủng bố và cho phép các linh mục đã di cư trở về dưới sắc lệnh
ngày 7 Fructidor lV (24 tháng Tám 1796), nhưng chỉ với điều kiện phải chấp nhận
lời thề dân sự. Việc tuân giữ tôn giáo phải trong phạm vi hoàn toàn riêng tư:
chuông và các dấu hiệu bên ngoài tôn giáo bị cấm đoán, và chế độ tiếp tục chính
sách phân cách rõ giữa Giáo Hội và nhà nước của Quốc Hội Nghị Viện trước đây.
Giáo Hội được duy trì qua sự ban phát đức tin.
Tuy nhiên, những năm này đáng chú ý về một sự xây dựng niềm
tin Công Giáo từ bên dưới. Sự sống lại
chứng tỏ một khả năng hồi phục lan toả về niềm tin tôn giáo, nhưng cũng không
ít ý nghĩa hơn cái mà nó tiết lộ ra những khác biệt đa dạng của vùng miền và giới
tính. Vào năm 1796, linh mục quản xứ Menucourt Thomas Duboscq, người đã từ chức
linh mục vào tháng Giêng 1794 đã di chuyển sang xứ Vaux gần đó để trở lại chức
linh mục và ở lại đó cho tới khi qua đời năm 1825 ở tuổi 75. Tuy nhiên, sự tăng
vọt trong tôn giáo sự vụ phổ thông này, trên hết là công lao của phụ nữ, và mạnh
mẽ nhất ở những khu vực xa xôi như những vùng phía Tây, Normandy ở Tây Nam nơi
phần lớn các linh mục đã di dân và các thành phố tỉnh lỵ (Bayeux, Arles, Mende,
Rouen, Toulouse,) nơi sự sụp đổ của các cơ cấu chế độ cũ đã làm cho phụ nữ đặc biệt bị tổn thương vì thất nghiệp và bần
cùng. Thí dụ, tại Bayeux trong tháng Tư 1796, một đám phụ nữ giận dữ đã xâm chiếm
thánh đường, từng bị biến đổi thành ngôi đền của lý trí trong thời khủng bố và
đập bể tượng Rousseau xuống sàn và hô lớn:
“Với Thượng Đế tốt lành, chúng tôi có bánh mì ăn.” Không có sự tương quan
giữa sự khao khát cho các lễ nghi tôn giáo quen thuộc và sự thù ghét đối với nền
cộng hòa: Thí dụ tại các tỉnh Yonne và
Nord, lòng mộ đạo kiên trì rằng họ là những người cộng hòa thực thi những bảo đảm
của hiến pháp về tự do tôn giáo. Những thỉnh nguyện thư đến từ Chablis tuyên bố
rằng: “Chúng tôi muốn vừa là người Công
Giáo vừa là cộng hòa, và chúng tôi có thể trở thành cả hai.” Một thỉnh nguyện
thư từ 900 người cộng hòa Công Giáo tại quân khu Bousbecque thuộc tỉnh Nord yêu
cầu mở cửa nhà thờ vào tháng Ba 1795 với một sự hăm dọa xem lại Hiến Pháp 1793:
“Chúng tôi tuyên bố tới
quý vị rằng chúng tôi sẽ cử hành những mầu nhiệm thánh trong nhà thờ chúng tôi
vào ngày 1 Germinal nếu vị linh mục chúng tôi không bỏ trốn. Nếu ông ta bỏ trốn,
chúng tôi sẽ tìm ra vị khác. Nên nhớ cuộc
nổi dậy này là trách nhiệm của người dân khi các quyền bị vi phạm.”
Ở nơi khác, người dân đã tìm ra những cách khác để duy trì việc
thực thi tôn giáo. Khi đội quân Jacobins chiếm lại St-Laurent-de-Cerdans từ tay
quân Tây Ban Nha vào tháng Năm 1794, đã
có sự di tản lớn lao của những người Laurentins đã chiến đấu chống lại quân Cộng
Hòa và chính thị trấn đã thoát khỏi sự phá hủy vật chất trong đường tơ kẽ tóc.
Linh mục quản xứ Joseph Sicre đã rời St-Laurent ngày 24 tháng Chín 1792. Mặc dù
ông ta có lẽ đã trở lại giáo xứ của ông cùng với đoàn quân xâm lược Tây Ban Nha
trong 1793-1794, những di chuyển của ông từ đó tới 1796 không ai biết. Nhưng kể
từ 11 tháng Chín 1796, ngày ban phúc lành của nguyện đường nhỏ bé
Saint-Cornélis, một lần nữa ông ta bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống của giáo dân trong xứ của ông. Xây dựng trên một cánh đồng ngay vùng băng
qua biên giới tại con sông Muga, mà ở tại vị trínày, nó không lớn hơn một dòng
suối, ngôi nguyện đường đã trở nên một nơi thiêng liêng cho hàng trăm người
Laurentins lội bộ khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ băng qua những con đường mòn
khúc khuỷu của dãy Pyrénées để làm hôn lễ hay mang trẻ sơ sinh đến làm lễ rửa tội.
Cho tới khi trở lại Saint-Laurent vào tháng Mười Hai 1800, Sicre đã rửa tội cho
331 người Laurentins, nhiều người trong họ đã do cha mẹ họ mang đến trong ngày
sinh của họ giống như sự thực hành tôn giáo trước cuộc Cách Mạng, và đã cử hành
158 cuộc hôn nhân có liên quan đến người Laurentins. Sự có mặt của ông tại đó
được biết đến rộng rãi: Ông cũng đã cử hành 124 cuộc hôn nhân khác và 281 lễ rửa
tội cho những người từ những làng mạc khác từ Vallespir và xa hơn nữa là những
vùng bình nguyên quanh Perpignan cách 60 cây số thuộc vùng Đông Bắc.
Tuy nhiên vào 1796, Giáo Hội Công Giáo đã bị thu hồi một số
tài sản đất đai, các đặc quyền, sự độc quyền và phần lớn chủ quyền xã hội. Lòng tôn sùng đạo của phụ nữ dù dưới bất cứ
lý do gì, thì đàn ông nói chung đều rất ít nhiệt tâm đối với Giáo Hội: đám con
trai sinh sau 1785 không vào học các trường học giáo xứ, hàng trăm ngàn thanh
niên trẻ phục vụ trong các đơn vị quân sự thế tục và bộ lịch Cộng Hoà tự nó đã
hợp pháp hoá việc coi ngày Chúa Nhật cũng chỉ bình thường như bất cứ ngày nào
khác. Từ những phương cách này, một sự khác biệt về sự mộ đạo đặt trên căn bản
giới tính, đã rõ rệt từ trước cuộc Cách Mạng, càng trở nên sâu rộng hơn. Phụ nữ,
thường không tín nhiệm giới giáo sĩ theo Hiến Pháp và mệt mỏi vì mong chờ các
linh mục di tản vượt qua được những ngần ngại do dự, đã biểu lộ một sự tôn sùng
đạo phổ thông thường rất sâu sắc và tự tin. Các giới chức thẩm quyền địa phương
bị buộc phải mở lại các nhà thờ, cũng như những người đã từng mua lại như một
tài sản quốc gia, những giáo dân đạo đức đáng kính đã phải cử hành “thánh lễ bất thường” trong khi các bà đỡ
làm nghi thức rửa tội cho trẻ sơ sinh.
Các ngày Chúa Nhật được coi như là những ngày nghỉ hơn là theo kiểu tuần lễ 10
ngày của lịch mới và những kho tàng trống rỗng của Giáo Hội được lấp đầy với những
thánh tích bị lấy cắp và những vật thánh rất được tôn sùng.
Rúng động vì sự phản đối lan rộng và thường bạo động từ những
phụ nữ ngoan đạo nằm trong chủ quyền dân sự của các đại biểu địa phương của chế
độ, Hội Đồng Quản Trị cố dọa nạt để các linh mục “không trung thành” đi trốn
tránh nhưng với kết quả không đáng kể với lòng mộ đạo, tuy ít phổ quát nhưng lại
kịch liệt hơn một thập niên trước đó. Trọng tâm của nỗi bất an của chế độ vì sự
nổi dậy Công Giáo là sự hiện diện liên tục trên đất ngoại quốc của những người
đã di tản và các dấu hiệu bầu cử đáng lo ngại rằng những người có khả năng đi bầu
cho các đại biểu chính trị công khai muốn
trở về chế độ quân chủ. Bởi vì, trong
khi đạo quân Jacobins đã thành công trong việc loại trừ quân phản Cách Mạng ra
khỏi đất Pháp, chiến tranh và những vấn đề với đám di dân vẫn cứ tiếp tục.
Những năm khó khăn của Hội Đồng Quản Trị thường mang đặc tính những căng thẳng đắng cay thỉnh
thoảng nổi lên bởi sự nổi dậy tôn giáo và sự đảo lộn tổ chức giáo hội, sự đào
ngũ khỏi quân đội và sự tránh né trưng binh, sự tẩy chay bầu cử chính trị và sự
trả thù dữ dội cho nền chính trị chết chóc của năm Cách Mạng ll. Nhấn mạnh những
căng thẳng liên kết này mà chúng có nguồn
gốc từ tôn giáo và những xung đột chính trị kể từ 1790 và các nhu cầu của chiến
tranh kể từ 1792, là nền kinh tế (mang sắc
thái) chính trị của Hội Đồng Quản Trị, sự đoàn kết và sự trầm trọng thêm về
tính thù ghét đối với nền Cộng Hoà Tư Sản.
Nền kinh tế mang sắc thái chính trị của chế độ đã làm khối đại quần
chúng xa lánh.
Trong một nền kinh tế vẫn còn dấu ấn chiến tranh, sự từ bỏ việc kiểm soát giá cả vào tháng Mười Hai
1794 đã gây nên một sự lạm phát phi mã.
Vào tháng Mười 1795, giá trị của đồng Assignat chỉ còn 0.75% giá trị mặt nổi của
nó. Vào tháng Hai năm sau, khi đồng tiền giấy này bị từ bỏ, nó chỉ còn giá
0.25%. Những khó khăn cho những người làm công hưởng lương gia tăng vì sự tăng
giá không kiểm soát, vào mùa thu 1795 lại tồi tệ hơn vì mùa màng bị thất
thu. Có thể coi là một sự mất mùa tồi tệ
nhất của thế kỷ, và theo sau là một mùa đông
khắc nghiệt, cơn khủng hoảng cho sự sống còn lớn lao nhất trong
1795-1796 tăng cường độ các biến động về những đáp ứng của quần chúng đối với Hội
Đồng Quản Trị. Chế độ tiếp tục các hình thức Cách Mạng chính thức về thuế má
trên đất đai và tài sản cá nhân, nhưng cộng thêm vào thuế dịch vụ thương mại và một loại thuế đánh trên
các cửa hàng lớn nhỏ. Những ảnh hưởng xã hội của các loại thuế mới trên tài sản
này còn hơn phần đền bù lại qua sự giới thiệu lại thuế gián tiếp đánh trên nhu
yếu phẩm được thu tại các cổng trạm vào thị trấn.
Đây là những năm tháng khó khăn cho người dân thành phố làm
công ăn lương, nhưng không nhất thiết cho những người tại cùng quê xa xôi. Sự
xóa bỏ chế độ kiểm soát giá cả và lương bổng được cảm nhận nhiều cách khác nhau
trong những vùng quê khác nhau. Với hàng trăm ngàn thanh niên vẫn đang ở ngoài
mặt trận, công nhân vùng quê xa xôi có thể hưởng lợi từ sự thiếu hụt lao động
vào mùa thu hoạch để nhất định đòi trả lương cao hơn. Tại Attichy ở phía Đông của
tỉnh Oise, mùa thu hoạch tháng Tám 1795 bị gián đoạn vì sự đình công của đám
người làm thuê lưu động đòi trả lương cao hơn. Được biết đến từ thế kỷ XV như Bacchanals
(những con sâu rượu: đặt theo Bacchus= ông thần rượu) những cuộc đình công bạo
động này của đám công nhân thu hoạch chứng tỏ sự quan trọng của việc trồng lúa
mì thương mại tại bình nguyên Paris. Các nông dân đã vay mượn tiền để có thể
mua thêm một mảnh đất trong thời bán đất của người di dân 1793-1794, cũng có thể
lợi dụng sự lạm phát tăng vọt để hoàn lại vốn vay. Những chủ nông trại thuê mướn đất cũng lợi dụng
sự giá cả leo thang có lợi cho sản phẩm họ bán ra để mua đất, đóng đầy đủ thuế
và trả nợ thuê mướn đất đai.
45 điều luật và 50 sắc lệnh liên quan tới rừng cây được thông
qua trong 1790 – 1795 với sự va chạm nho nhỏ đối với việc đốn cây rừng bất hợp
pháp. Vào năm 1795, chứng cớ phá rừng và
chặt cây, đặc biệt ở phía Nam, đã trở nên một quan trọng tầm quốc gia. Trong một
loạt các báo cáo, phe nhóm Jacobins, những chuyên gia nông nghiệp và ông cựu
linh mục Coupé del’Oise tranh luận rằng miền Nam nước Pháp giờ trụi lủi giống
như những khu vực bờ biển Địa Trung Hải từ Tây Ban Nha đến vùng Cận Đông. Ông báo
cáo rằng vùng Narbonnais nơi mà người La Mã
gọi là vùng đất của họ và của Italy, giờ chẳng còn lại gì ngoài hầu hết
là những mỏm núi khô cằn:
“Ngay cả trong ký ức
đang sống, người ta cũng tin rằng khí hậu đã thay đổi, vườn nho và các cây ô
liu giờ đang chịu đựng sương giá. Chúng sẽ diệt vong tại những nơi chúng từng
đơm bông, và người dân đưa ra lý do: “Những sườn đồi và đỉnh núi trước đây có
những cụm cây rừng, bụi rậm và cỏ xanh bao phủ. Khi bè lũ khai quang tham lam đi
đến, tất cả mọi thứ bị đốn ngã không hề có sự xem xét. Người ta đã phá hủy những
điều kiện sinh thái mà chúng từng bảo toàn khí hậu trong vùng.”
Tuy nhiên, Hội Đồng Quản Trị cũng chẳng thành công gì hơn chế
độ Cộng Hòa Jacobins trong việc giải quyết những vấn đề đất công và sự khai
quang. Sự kiên quyết bám vào nền kinh tế laissez-faire tự do kinh doanh, chế độ
đã tìm cách áp đặt chủ nghĩa cá nhân trong nông nghiệp và quyền sở hữu tài sản
tư nhân. Kể từ 1789 không một chính quyền nào sẵn lòng đương đầu một cách đầy đủ
với mạng lưới cổ xưa về sự kiểm soát công cộng trên những nguồn tài nguyên cây
rừng, đất công, tới việc xử dụng đất không thể trồng trọt và các quyền để được
đi vào các khu đất tư nhân. Lúc này, Hội
Đồng Quản Trị đã hành động để luật pháp hoá quyền ưu tiên cho những quyền của
chủ nhân các tài sản tư trong các khu rừng, và các vùng đất có thu hoạch cũng
như không trồng trọt được, đồng thời khuyến khích việc bán đất công qua đấu thầu.
Vào ngày 21 Prairial lV (9 tháng Sáu 1796), một biện pháp tạm thời được vội vã trình lên cơ quan lập pháp và Hội Đồng Quản Trị để hoãn
lại việc thi hành sắc lệnh ngày 10 tháng Sáu 1793 phân chia đất công theo đầu
người.
Hội Đồng Quản Trị cũng đảo ngược chính sách của Quốc Hội Nghị
Viện về những bệnh viện quốc hữu hoá và trách nhiệm của nhà nước cho vấn đề an
sinh. Vào năm Cách Mạng V, các hội đồng
bệnh viện được trao cho trách nhiệm quản trị và an sinh xã hội một lần nữa, đặt
căn bản trên sự từ thiện tư nhân. Mặc cho những lời biện hộ của các bệnh viện rằng
họ cần sự tiếp trợ của nhà nước vì họ đã mất các quyền thời tiền Cách Mạng để
thu góp lệ phí trên các cộng đồng địa phương. Triết lý trách nhiệm cá nhân của
chế độ nhấn mạnh những hận thù giai cấp kịch liệt hơn tại bất cứ giai đoạn nào
khác của cuộc Cách Mạng. Tuy nhiên, với sự trái ngược hẳn với những thái độ tự
do kinh doanh Laisser-faire như vậy, nó
đặt lại sự kiểm soát chế độ cũ trong nghề
đĩ điếm, như là phương sách cuối cùng cho đám gái trẻ di dân lên Paris và những
thành phố khác. Nghề làm điếm dù bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nhưng lại được
yêu cầu đăng ký với cảnh sát và làm việc
trong những nhà chứa kín đáo để
kiểm soát bệnh giang mai và làm cho đường phố công cộng đáng tôn trọng hơn.
Không có việc kiểm soát đối với khách làng chơi.
Những giá trị văn hoá làm bá chủ trong những năm này, được biểu
hiệu hoá với sự xây dựng một thị trường chứng khoán mới về vốn tư bản, đã được
soi sáng trong việc sản xuất văn học. Sau thời gián đoạn của chính sách khủng bố,
việc xuất bản sách mới đã tiến tới mức độ
815 sách trước Cách Mạng vào năm 1799, trong số đó có 174 cuốn văn chương mới,
so sánh với 99 năm 1788 và 16 năm 1794. Đó là những chuyện về tình yêu đồng quê
nổi trội, những âm mưu tình cảm và những chuyện bí mật, nhưng có một số lớn các
quyển sách chuyên biệt về tôn giáo, giáo dục hay luân lý đạo đức. Vào cuối thập
niên 1790s, số lượng in ấn và xuất bản đã gấp ba lần mười năm trước. Charles
Pankoucke, nhà sản xuất cho tờ báo chính thức về các thông cáo và báo cáo quốc
hội “Moniteur Universel” có tới 800 công nhân. Tuy nhiên, số lượng các tờ báo lại
giảm thiểu từ 226 năm 1790 và 78 năm
1793 xuống còn 42 và những bài ca chính trị từ 701 bài năm 1794 còn 90 vào năm 1799 và chỉ còn 25
vào năm 1800.
Với các chính sách tôn giáo, quân sự, kinh tế và xã hội của họ,
Hội Đồng Quản Trị đã làm số đông người dân xa lánh, những người đã sẵn bị gạt
ra ngoài các hình thức nói lên tiếng nói bất mãn một cách hợp pháp. Sự đáp trả
quần chúng cho cái chính quyền ”Cộng Hòa Tư Sản” này khác biệt đủ loại về hình
thức và nội dung chính trị nhưng khắp nơi đều theo bản năng với cùng một giọng
điệu. Vào năm 1797, các cộng đồng, các cá nhân và các phong trào bí mật đã vận
dụng một loạt rất phong phú các hình thức bất hợp pháp về phương sách phản đối,
thay đổi từ việc đơn giản từ chối tuân thủ những chương trình tỉ mỉ về sự thay
đổi cấp tiến.Trong cái thị trấn nhỏ Collioure tại vùng biên giới Điạ Trung Hải
với Tây Ban Nha vào ngày 13 Germinal năm V (2 tháng Tư 1797), một đám rất đông
phụ nữ trở về sau khi tham dự thánh lễ tại một ngôi làng bên cạnh đã hăm dọa
nhân viên một cửa hàng bán gạo đặt trong một nguyện đường Dominican trước đó,
đòi hỏi cả bánh mì và mở cửa lại nhà nguyện. Theo viên thị trưởng và là một quý
tộc địa phương Jacques Xinxet: “sự cuồng
tín, nguồn gốc nguyên thủy của mọi vấn đề, chính là điều đáng trách. Chúng ta hãy chặt bỏ tội ác
tận gốc rễ nếu chúng ta muốn có một sự yên ổn nội tại.” Thị trấn
bị chia rẽ sâu sắc vì sự bỏ đạo ( cả 10 linh mục và tu sĩ của
Cullioure đã đi di tản) và vì 6 tháng
chiếm đóng của quân đội Tây Ban Nha trong năm 1794.
Cùng trong một tháng mà các phụ nữ Collioure đòi mở lại nguyện
đường, một phiên toà đã diễn ra tại Vendôme, cách xa Collioure hàng trăm cây số
về phía Bắc. Gracchus Babeuf và 48 thân hữu cộng tác của ông bị tố cáo có âm
mưu lật đổ chính quyền hợp pháp bằng bạo lực.
Sự phát triển trí tuệ riêng của Babeuf từ năm 1794 trong bối cảnh Paris
chịu sự đói khổ kinh tế và đàn áp chính trị đã đưa ông ta tới việc bênh vực cho
việc chiếm giữ quyền bính bằng vũ lực để áp đặt nền dân chủ chính trị của Hiến
Pháp 1793 và sự tập trung hoá các phương tiện sản xuất, mà thực ra có lẽ là làm
tự túc. Chương trình là để áp đặt một
giai đoạn độc tài được đề xuất là ngắn hạn bởi một nhóm các nhà Cách Mạng. Tư
tưởng của Babeuf và các chiến lược là một quan trọng lớn lao cho lịch sử của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lý thuyết “Âm mưu của bình đẳng” của ông
đáng chú ý cho sự thu hút về chủ nghĩa cấp tiến chính trị và xã hội cho binh
lính, phụ nữ lao động và phe nhóm Jacobins. Tuy nhiên, những người theo chân
ông này được liên kết bởi sự đối nghịch với Hội Đồng Quản Trị hơn là bởi chủ
nghĩa cách mạng cộng sản, một chương trình mà trong bất cứ biến cố nào cũng ít
có sự lôi cuốn đối với phe Sans-Culottes được hứa hẹn có sự phân chia lại các
tài sản tư nhân hơn là một xã hội tập
trung.
Donald Sutherland kết luận rằng hầu hết người dân Pháp có can
dự vào một hình thức nổi loạn nào đó chống lại chế độ Cộng Hòa vào những năm
tháng này. Tuy nhiên, không phải nền Cộng Hoà đã bị cự tuyệt như vậy, nhưng
đúng hơn là vì cái nền chính trị giai cấp của đám tinh hoa của nó muốn tồn tại
lâu dài. Dù vậy, đã không có những nối kết về cơ cấu hay tư tưởng nào giữa những
người ở thế đối lập trong khoảng
1795-1799 bao gồm: những kẻ mưu đồ
bảo hoàng và những tay “khủng bố trắng,” những thành viên theo Babeuf hay
Jacobins, những phụ nữ chống đối vì đức Kitô và vì bánh mì và những kẻ đào ngũ
khỏi quân đội, khác hơn là sự thù ghét chế độ và những kẻ ủng hộ chính sách (ưu
đãi) tư sản của nó. Một số thách thức phiền toái nhất cho chế độ lại chẳng có
những hàm ý chính trị rõ ràng. Thí dụ, tại Beauce ở phía Nam Paris vào
1796-1797, dân du hành đã rất kinh sợ vì cái băng đảng Orgères, một nhóm dân
thiểu số bạo động có tổ chức khoảng 150 người nam nữ đủ mọi lứa tuổi đã gây ra
75 vụ giết người trong 95 vụ cướp phá. Những câu chuyện về việc đám cướp hạ nhục
và gây bạo động tới các nạn nhân và những trò nhậu nhẹt say sưa của chúng đã
gây sợ hãi cho xã hội hiền hòa. (Cũng như đám cướp có danh xưng “bọn lái” ở
phía Nam, được gọi như vậy vì chúng tra
tấn bằng cách đốt chân của nạn nhân để lấy thông tin). Cuối cùng, khi bị bắt
vào năm 1798, 22 tên trong bang đã bị hành quyết.
Sự thiếu hụt kinh tế được hạ giảm chút ít nhờ nhiều vụ mùa
thu hoạch dồi dào và nhờ việc tái xử dụng đồng tiền kim khí vào năm 1798, nhưng
những nguồn gốc của sự thù ghét đối với chế độ vẫn tồn tại vì chế độ vẫn động
viên các thanh niên trẻ để đi chiến đấu ở những vùng đất xa xôi trong khi từ chối
người dân các phương tiện xây dựng lại tôn giáo và nền kinh tế theo đường hướng
dân túy. Chính những người vào năm 1792 đã bênh vực cho các cuộc chiến giải
phóng Cách Mạng như là một cách giải quyết đối với sự thù ghét ngoại bang và sự
chia rẽ nội bộ, bây giờ lại điều hành những công việc liên hệ với ngoại quốc
trong một lối cư xử thực tiễn và mở mang cần thiết. Một quân đội nhỏ bé hơn
(382,000 quân trong 1797 so với 732,000 năm 1794), đa số gồm những thanh niên được
trưng binh, giờ được chỉ huy bởi những sĩ quan được chỉ định từ trên xuống để
tưởng thưởng cho các tay nghề kỹ thuật và thanh trừng cả hai đám Jacobins và những
người ủng hộ hoàng gia.
Mặc dù có những may mắn xoay chiều trong chiến tranh, nhưng
nhà nước cũng tiếp tục trả giá đắt. Có tới 200,000 binh lính đã tử trận trong
1794-1795, hầu hết từ các vết thương và bệnh tật tại các bệnh viện thô sơ. Việc
thiếu thốn tiếp liệu cần thiết đã dẫn đến những cuộc nổi loạn tại Bỉ, Hòa Lan
và Italy và làm cho các viên sĩ quan làm ngơ trước các vụ quân lính trộm cắp. Trong khi chính quyền Jacobins năm
1793-1794 kiên quyết về sự không tương xứng giữa một nước Pháp mới và một Âu Châu cổ, Hội Đồng Quản
Trị đã có những hiệp ước hoà bình với Phổ (tháng Tư 1795), Tây Ban Nha (tháng Bẩy
1795) và các hiệp uớc thương mại và hàng hải ký với Tây Ban Nha vào tháng Tám
1796; những hiệp ước này được ẩn núp trong cái
gìới hạn giả định là để cùng hiện hữu giữa các quốc gia có chủ quyền. Với
sự tạo nên những chính thể Cộng Hoà “kết nghĩa anh em” tại các nước nhỏ vào
1795, những hiệp ước này báo hiệu một sự chuyển đổi từ một cuộc chiến cho sự tồn
tại của Cách Mạng thành một sự mở mang và thương lượng. Sự chào đón đã vươn tới những người ngoại quốc
“đã được khai hoá” vào năm 1792 dẫn tới chính sách giám sát và nghi ngờ dưới thời
khủng bố, bây giờ, với một loạt các luật lệ, chẳng hạn như bộ luật tháng Hai
1798 trao quyền cho các viên chức được
trục xuất người ngoại quốc khỏi các hải cảng, luật lệ hóa quyền hạn của nhà nước
trên quyền nhập cư và tầm trú tự do.
Hơn nữa, xung đột với Anh quốc và Áo Quốc vẫn tiếp tục: trong khi một hiệp ước hoà bình ký với Áo tại
Campo-Formio ngày 27 Vendémiare Vl (18 tháng Mười 1797), những thù hận với
Italy lại khởi sự vào năm 1798. Việc này, cùng với sự tăng cường độ chiến tranh
với Anh Quốc vào Ireland và Ai Cập đã làm cho Hội Đồng Quản Trị tin rằng sự
trưng dụng quân đội đột xuất phải được thay thế bằng một sự trưng binh thường
niên với thanh niên độc thân tuổi từ 20 – 25 (Luật Joudan, ngày 19 Fructidor VI
hay 5 tháng Chín 1798). Điều luật này đã
làm tăng dữ dội cường độ bất mãn dịch vụ quân sự đã sẵn ngấm ngầm hay công khai
từ năm 1793 vì nó làm tăng số thanh niên cường tráng phải rời bỏ lực lượng lao
động trong gia đình để đi chiến đấu ở những vùng đất ngoại quốc
thường xa xôi, và bởi vì nó dẫn đến một hệ thống “thế chỗ” khi những người
bị động viên giàu có, họ có thể bỏ tiền mua người nghèo đã thoát khỏi cuộc bốc
thăm để đi trưng binh thay thế vào vị trí của họ. Lại một lần nữa, những vùng
miền này nơi mà sự cai trị của đất nước quân chủ trước 1789 là yếu kém nhất (như các phần đất của Massif Central,
Brittany và vùng phía Tây) hay chỉ vừa mới được kết hợp vào đất nước mới
đây (như Pyrenées hay các vùng đất Đông
Nam,) đã đặc biệt tức giận về sự can thiệp vào nội bộ của họ quá sâu đậm vào
những yêu sách của nhà nước. Sự kháng cự lại việc trưng binh thường trở nên một
phần của một hỗn hợp từ chối dính líu vào
những thù ghét tôn giáo và sắc tộc: tại vùng Brittany và vùng Tây
Chuannerie, một hỗn hợp mạnh mẽ giữa đám bảo hoàng và băng đảng cướp bóc chứng
tỏ không thể tận diệt được.Tại những khu vực xa Paris, đám người trốn quân dịch Insoumission
(từ chối trưng binh gia nhập quân đội) trở nên bệnh cố hữu địa phương, thường
có sự hậu thuẫn ngầm của hầu hết cộng đồng địa phương: những kẻ trốn tránh
trưng binh tiếp tục sống và làm việc như bình thường, chỉ biến mất khi cảnh sát
xuất hiện. Thanh niên trẻ cũng tìm cách trốn tránh trưng binh qua việc tự hoại
thân thể hay qua các cuộc hôn nhân xếp đặt.
Đôi khi, có những cố gắng cản trở phòng tuyển mộ quân bằng cách hủy hoại các hồ sơ khai sinh, như
vào đêm 5 Nivôse Vll (Đêm Giáng Sinh 1799), khi sảnh đường thị trấn St-Girons
(Ariège) bị lửa thiêu rụi và cùng với nó là sổ đăng ký dân sự của khu quận. Sự kháng cự hữu hiệu nhất khi nó có sự hỗ trợ
của cộng đồng. Tại những khu vực miền quê xa xôi, khi số lượng ngày càng giảm các
viên chức và người ủng hộ chế độ có dính líu đến nông nghiệp, thì việc hăm dọa,
đốt nhà cửa và những sự hủy hoại tài sản khác có thể được xử dụng để doạ nạt
các viên chức này đi vào trạng thái bất động. Vào năm 1798, nhiều vùng miền
phía Tây, vùng Massif Central và Pyrénées chính quyền gần như không thể quản trị.
Hội Đồng Quản Trị đã 2 lần phải bảo vệ chế độ chống lại những
lực lượng chính trị nổi dậy từ bất cứ phía nào. Những cuộc bầu cử năm 1797 đã đem trở lại một đa số
đại biểu bảo hoàng với đủ loại sắc thái, đưa đến kết quả có sự hủy bỏ sự
đắc cử của 177 đại biểu sau khi có sự kêu gọi quân đội đến can thiệp vào ngày
17 và 18 Fructidor V (3 và 4 tháng Chín 1797).
Một làn sóng đàn áp mới theo sau chống lại các giáo sĩ ngoan cố, nhiều
người đã trở về sau các cuộc bầu cử với hy vọng tràn trề. Hiệp ước hoà bình
Campo Formio đã đưa cuộc chiến khởi đầu năm 1792 đến một nền hòa bình tạm thời,
ngoại trừ với nước Anh, chống lại những kẻ mà Napoleon đã được gửi đến Ai Cập
vào tháng Năm 1798 với hậu quả tai hại khủng khiếp. Sau đó, vào ngày 22 Floréal
VI (11 tháng Năm 1798), một cuộc đảo chánh được tổ chức để ngăn cản một sự hồi
sinh chủ nghĩa Jacobins. Lần này có 127 đại biểu đã bị ngăn cản không cho vào
ngồi trên chiếc ghế đại biểu của họ.
Nhiều năm có một chính sách ngoại giao thành công đã dẫn Hội
Đồng Quản Trị đi vào các cuộc chiến tranh khốc liệt về việc sát nhập lãnh thổ.
Hội Đồng Quản Trị thiết lập những nền cộng hoà thân hữu tại Thuỵ Sĩ (tháng
Giêng 1798) và lãnh thổ của Giáo Hoàng (tháng Hai). Vào tháng Tư, bờ tả ngạn sông Rhine được kết
hợp vào những”biên giới thiên nhiên của cái mà ngày càng được coi như “Đại Quốc.”
Dân số địa phương đã không luôn luôn được thuyết phục rằng cư xử của đám binh
lính tỏ ra có sự tôn kính lẫn nhau. Những hy vọng chuyển hướng sự chú ý của Hải Quân Anh Quốc cũng đưa Hội Đồng Quản Trị
ký kết một khế ước với những nhà ái quốc Ái Nhĩ Lan. Kể từ khi có sự thành lập của những người Ái
Nhĩ Lan Liên hiệp không đảng phái tại Belfast năm 1791, hy vọng của họ tập
trung vào sự trợ giúp của Pháp để bảo đảm sự độc lập khỏi Anh Quốc. Một cuộc
xâm lược khởi đầu của Pháp vào tháng Mười Hai 1796 đã bị các cơn bão cản trở.
Vào 1798, một cố gắng thứ hai để hỗ trợ
một cuộc nổi dậy ở Ái NHĩ Lan và để vô hiệu hoá người Anh đã thất bại nhục nhã
sau những thành công bước đầu. Chỉ trong
vòng ít tuần, khoảng 30,000 người Ái Nhĩ Lan đã chết trong các vụ sát hại trừng
phạt, một số lượng tương đương như trong thời kỷ khủng bố tại Pháp, một đất nước
có dân số đông gấp 6 lần.
Trong cái bầu không khí đầy nghi ngờ và bất ổn chính trị này,
một cặp đôi tuyệt hảo trở nên ngày càng được chú ý tới. Vào 1795, bà goá phụ
Rose de Beauharnais gặp gỡ một viên sĩ quan trẻ, quê mùa và tuyệt vời. Cả hai
thuộc thành phần ở bên lề xã hội quý tộc của thời tiền Cách Mạng Pháp: ngươì đàn
bà là con gái của một nhà quý tộc nhỏ không có của cải, người đã quản lý vụng về
đám nô lệ của minh trong cái đồn điền sản xuất đường tại Martinique và chàng
trai là anh chàng xứ Corsica Napoleone Bonaparte, người thường cảm thấy ngượng
ngùng trong khi học tại học viện quân sự Pháp. Napoléon (tên Pháp hoá của ông)
được sinh ra trong một gia đình tiểu quý tộc Corsican năm 1769. Ông được gửi học
tại học viện quân sự tại Pháp khi lên mười tuổi, là một cậu trai thấp bé, kín đáo
, có ý chí nung nấu nhưng dễ nổi giận trong sự đáp trả với những lời trêu chọc
nhạo báng của bạn học đồng viện về tên tuổi và cái giọng phát âm ( nhà quê) của ông bằng một tham
vọng sắt đá và đôi khi là những bạo lực bất ngờ.
Cả hai người không ai có dáng dấp quyến rũ về thể chất: cả
hai đều thấp bé ở cái thời điểm mà kích thước chiều cao là sự quyến rũ; và hàm
răng xấu xí của Rose (di sản của thuở nhỏ thích ăn mía) cũng tệ như da mặt xanh
xao bệnh hoạn của Napoléon. Nhưng cả hai đã có thể lôi cuốn nhau và họ đã được
nối kết qua nhiệt tâm và tình cảm chân thật cũng như qua một tham vọng đáng kinh
ngạc. Josephine (như ông ta bắt đầu gọi
bà) tặng cho ông sự quyến rũ của cái duyên dáng quý tộc cũ. Đáp lại, ông ta
cho bà sự xúc cảm có từ quyền lực. Cuộc
Cách Mạng Pháp và các cuộc chiến mà nó tạo nên đã cho Napoleon và những người
lính trẻ có tham vọng một cơ hội thăng tiến nhanh chóng: Vào năm 1793, việc ăn
mừng chiến thắng chiếm lại hải cảng Toulon từ tay quân Anh của ông đã đẩy mạnh
ông đi lên, từ chức vụ đại úy lên thiếu
tướng. Vào thời điểm đó, Bonaparte là một
người ủng hộ Jacobins, người đã nhận được sự tưởng thưởng rộng rãi từ Quốc Hội
Nghị Viện danh hiệu: “nhà ái quốc Jacobin gốc Corsica” sau cuộc nổi dậy trên đảo. Vào tháng Bẩy 1793, ông xuất bản cuốn “Souper
de Beaucaire” trong đó ông tuyên bố: “Marat,
Robespierre! Đây chính là những thần tượng của tôi.” Tuy nhiên, vào thời điểm
Hội Đồng Quản Trị, ông đã trút bỏ lối diễn giải cách mạng như vậy và chú tâm
vào quyền lực quân sự. Vị thế của ông được củng cố khi vào cuối năm 1796, ông
đã chiếm lại đảo Corsica cho chính quyền
Cộng Hòa sau 28 tháng là một tiểu vương quốc Ăng lê-Corsican.
Sự thăng tiến của Napoleon trong danh tiếng quần chúng được
thấy rõ qua các bài ca của thời kỳ. Le Caveau là một quán ăn xã hội nhỏ thành lập
tại Paris năm 1726 mà thành viên của nó thường cộng tác với những bài ca vè
châm biếm nhẹ nhàng như là giá của bữa ăn. Vào năm 1796, Le Caveau đã tự tái tạo
như là “Diners du Vaudeville” và thừa nhận một tổ chức mà nó loại trừ chính trị
ra khỏi những cộng tác của hội viên. Tuy nhiên, nhiều bài ca được đánh dấu với
những chủ đề quốc gia và vào năm 1797, một trong những bài ca đó đã ca tụng
chàng Napoleon trẻ tuổi.
Mặc dù có một mùa bội thu trong năm 1798, nền kinh tế Pháp vẫn
suy sụp. Bas-Rhin chỉ có 146 nhà máy dệt hoạt động so với 1800 vào năm 1790,
Basses-Pyrénées chỉ có 1200 nhân công được thuê mướn trong kỹ nghệ dệt len so với
6000 ở đầu thập niên. Những phẫn nộ về kinh tế và sự bất mãn của đám đông quần
chúng với những yêu sách đối với nhà nước lên đến cực điểm vào mùa hè 1799 ở khối
lượng lớn, nhưng đã không cùng phối hợp
với những cuộc nổi dậy của đám bảo hoàng tại vùng Tây Nam quanh thành phố
Toulouse và sự hồi sinh của đám Chouannerie tại phía Tây vào tháng Mười. Cũng vào thời điểm đó, sự trưng thu xung công,
sự chống lại giới tu sĩ và sự trấn áp của đạo quân Pháp được cho là quân giải
phóng đã gây ra bất mãn và nổi dậy trên khắp các nền “Cộng Hoà kết nghĩa.” Điều
này và những thành công bước đầu của liên minh thứ hai được tạo nên giữa Nga,
Áo và Anh Quốc đã cung cấp một lý cớ quân sự cho một thách thức thứ tư đối với
Hội Đồng Quản Trị, lần này được chỉ huy một cách thành công bởi Napoleon, viên sĩ quan đã giải tán các cuộc nổi dậy của đám bảo hoàng năm 1795
và giờ đã bỏ rơi các lực lượng yếu kém của ông tại Ai Cập. Trong trận này, ông ta có được sự hỗ trợ của người
anh (em) trai, lúc đó đang là chủ tịch của nhóm “Five Hundred,” Sieyès và
Talleyrand, 2 kiến trúc sư của sự thay đổi Cách Mạng năm 1789-1791, và Fouché,
một cựu linh mục từ Vendée quay sang chống đạo vào năm 1793. Trong 2 ngày 18 – 19 Brumaire Vlll (9-10
tháng Mười Một 1799), những thành viên giận dữ của hội “Five Hundred” bị quân đội đánh đuổi và một thập niên cai trị
mô hình chính quyền Quốc Hội đã kết
thúc.
Vào ngày 24 Frimaire (15 tháng Mười Hai), ban chấp chính ( gồm
có Bonaparte, Sieyès và Ducos, người giữ trung lập trong thời kỳ khủng bố,)
tuyên bố rằng một hiến pháp mới sẽ chấm
dứt mọi sự bất trắc trong khi được đặt căn
bản trên quyền lợi thiêng liêng của tài sản, bình đẳng và tự do:
“Các quyền lực mà chúnng
cơ cấu sẽ mạnh mẽ và vững chắc như chúng phải có để bảo đảm các quyền công dân
và lợi ích quốc gia. Hỡi các công dân, cuộc Cách Mạng được thiết lập trên những
nguyên tắc đã đề ra: nghĩa là nó phải kết thúc.”
Lời tuyên bố được đưa ra với kỳ vọng hơn là sự tự tin: nhiều
thành viên Jacobins vùng tỉnh miền đã chia xẻ sự giận dữ của các đại biểu mà nền
lập pháp cộng hoà đã bị quân đội giải tán. Trong cuộc toàn dân đầu phiếu trên
Hiến Pháp của năm Vlll, người em trai Luicien của Napoleon có gần gấp đôi số
phiếu thuận từ 1.6 triệu lên đến hơn 3 triệu, chỉ có chừng 1562 phiếu chống.
Tuy nhiên, chỉ trong vài năm, Napoleon đã đi tới việc gặp phải
những bất ổn lớn lao. Một sắc lệnh ngày 29 Vendémiaire lX (20 tháng Mười 1800)
đã cho phép những người di tản từng không tham gia các lực lượng vũ trang chống
đối được trở về. Sau đó ngày 6 Floréal X (26 tháng Tư 1802), đường lối được mở
rộng cho tất cả mọi người lưu vong khác. Cùng với nó, là một đám các linh mục
không tuyên thệ, được thuyết phục về sự ngu xuẩn trong việc xuống đường của tầng
lớp thứ nhất (tầng lớp giáo sĩ) chống lại việc cải tổ thế tục 1789, và về nhu cầu
bùng cháy sau mười năm trừng phạt của thần thánh cho một giáo lý Công Giáo
thanh tẩy để tái Kitô hoá nước Pháp. Vào 15 tháng Bẩy 1801, một hiệp ước được
ký với Giáo Hoàng, chính thức cử hành tại lễ Phục Sinh ở thánh đường Notre Dame
Paris năm 1802. Hiệp ước Lunéville được ký với Áo quốc ngày 21 Pluviôse lX (9
tháng Hai 1801) và hiệp ước Amiens với Anh Quốc ngày 5 Germinal X (25 tháng Ba
1802). Sự chấm dứt chiến tranh (mặc dù tạm thời) đã mang lại cơ hội cho những kẻ
đào ngũ được ân xá và cho những người di tản và giáo sĩ trở về tái hội nhập vào
cộng đồng của họ trong một bầu không khí hòa giải. Ánh nắng hiền hoà của mùa hè 1802 đã tạo nên
điều kiện toàn hảo cho cuộc toàn dân đầu phiếu về một Hiến Pháp mới của năm
(Cách Mạng ) X, thời điểm mà Napoleon trở
nên hoàng đế suốt đời. Cuộc Cách Mạng quả thực đã chấm dứt.
No comments:
Post a Comment