Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799
by Peter McPhee
Chương 5: Cuộc cách Mạng thứ Hai 1792
Ngay từ tháng Bẩy 1789, Hội Đồng
Quốc Gia đã phải đối diện với một thách đố hai mặt: Làm sao để bảo tồn Cách Mạng
khỏi tay đối thủ? (và) Cuộc Cách Mạng thuộc về ai? Những câu hỏi này bắt đầu lộ
ra vào giữa năm 1791. Phẫn nộ vì những
thay đổi về phía Giáo Hội và những giới hạn về quyền hạn của mình, vua Louis
XVI đã chạy trốn khỏi Paris vào ngày 21 tháng Sáu, công khai phủ nhận đường lối
mà cuộc Cách Mạng dẫn dắt. Sự đền bù duy nhất cho quá nhiều hy sinh là sự chứng
kiến một vương quốc bị hủy hoại, để thấy mọi quyền hành bị bỏ lơ, tài sản cá nhân
bị xâm phạm và sự an toàn của nhân dân khắp nơi bị nguy hại. Vua Louis đã làm một
lời kêu gọi thần dân hãy trở về những điều chắc chắn mà họ đã từng biết:
“ Hỡi thần dân Pháp, đặc biệt những người Paris, cư dân của một thành
phố mà tiền nhân của Trẫm đã vui mừng
khi gọi là “thành phố Paris tốt lành,” hãy coi chừng về những đề nghị và những
dối trá của bọn bạn hữu giả của các người. Hãy quay về với nhà vua, trẫm sẽ vẫn
luôn luôn là người cha, là người bạn tốt của các người.”
Tuy nhiên, khi tin tức về việc bỏ
trốn của nhà vua lan tỏa trong thành phố, thái độ của dân là một cú sốc hơn là sự
ân hận.
Cuộc trốn chạy đầy liều lĩnh của
hoàng gia đến nơi an toàn về vùng Montmédy gần biên giới là một loạt các lầm lỗi
ngay từ bước đầu. Vào buổi tối ngày 21, vua Louis đã bị Drouet, một chủ trạm bưu
điện tại Ste-Meneboild nhận diện và anh đã chạy thật nhanh tới Varennes thị trấn
kế để ngăn chặn nhà vua. Hội Đồng Quốc Gia đã sửng sốt: tước vị vua của Louis XVI
đã bị tạm ngưng, nhưng họ đã quyết định kiềm
chế bất cứ sự nổi loạn nào trong thời gian vua quay trở về Paris. Họ cảnh báo: “Bất cứ
ai tung hô nhà vua sẽ bị đánh đòn, còn ai xỉ nhục ông sẽ bị treo cổ.” Sự trở
về của Louis thật nhục nhã, các con đường đầy những thần dân của ông trong sự
phẫn uất, theo tường thuật thì họ đã không thèm bỏ mũ nón của họ xuống khi vua đi
qua như thường lệ. Trong thời gian bị Hội Đồng tạm ngưng chức, đám Jacobins như
Abbé Grégoire đã lập luận rằng nhà vua cần bị buộc phải thoái vị:
“Viên chức phục vụ cao cấp nhất đã rời bỏ vị thế của ông. Ông tự tạo ra
một giấy thông hành giả, sau khi đã công bố bằng cách viết thư cho các lực lượng
ngoại bang rằng kẻ thù nguy hiểm nhất của ông là những người ngăn chận sự lan
toả những nghi ngờ về ý định của hoàng gia. Ông đã thất hứa. Ông để lại cho người
dân Pháp một lời tuyên bố, nếu không phải là một tội hình sự, ít nhất theo dự đoán
cũng đi ngược lại với những nguyên tắc của nền tự do của chúng ta. Ông có thể không tưởng tượng rằng sự trốn chạy
của ông đưa đất nước vào mối nguy hiểm một cuộc nội chiến. Và cuối cùng, với một
giả thuyết rằng ông chỉ có ý định muốn đi đến Montmédy, tôi tuyên bố rằng: cho
dù ông muốn tự thoả mãn với việc quan sát Hội Đồng Quốc Gia liên quan đến những
nghị quyết của họ một cách hoà bình,
trong trường hợp này, thật vô lý để chạy trốn; hay ông muốn theo đuổi lời tuyên bố của ông bằng vũ lực, trong trường
hợp này là một âm mưu chống lại tự do.”
Tuy nhiên, dù nhà vua bị bắt lại
và buộc quay về nhục nhã, ngày 15 tháng Bẩy, Hội Đồng đã xác nhận rằng nhà vua
thực ra đã bị “bắt cóc” trên phương diện tinh thần và rằng các điều khoản về quân
chủ lập hiến của hiến Pháp 1791 vẫn hiệu lực. Đối với các đại biểu Quốc Hội, vấn
đề đã rõ ràng theo như lời lẽ của
Barnave:
“Bất cứ sự thay đổi nào hôm nay cũng vô cùng tai hại: Bất cứ sự kéo dài
Cách Mạng hôm nay cũng là một thảm hoạ. Liệu chúng ta nên kết thúc Cách Mạng
hay chúng ta lại đi trở lại từ khởi đầu? Nếu cuộc Cách Mạng bước thêm một bước
nữa, có thể là một bước nguy hại: nếu nó là bước đi song hành với tự do, hành
vi đầu tiên của nó là hủy diệt vương triều. Nếu nó đi theo sự bình đẳng, việc đầu
tiên của nó là sự tấn công vào tài sản. Đã đến lúc phải kết thúc cuộc Cách Mạng. Không phải mục tiêu của nó là tiêu diệt chế độ
quý tộc chứ không là huỷ diệt tài sản sao?”
Ở đây, Barnave muốn nói tới một làn
sóng đình công và xuống đường biểu tình của các công nhân và những người thất
nghiệp trong thành phố, cũng như sự bất ổn liên tục tại vùng quê. Bởi thế, vua
Louis trở nên một biểu tượng của sự ổn định chống lại những yêu sách đổi mới ngày
càng tăng của những công dân “tiêu cực” và những kẻ ủng hộ họ.
Vào ngày 17, một cuộc xuống đường ôn hoà được câu lạc bộ
Cordeliers tổ chức tại Champ de Mars để yêu cầu Louis thoái vị, cũng chính là nơi
“bàn thờ Tổ Quốc” mà đại lễ hội Liên Bang đã được cử hành năm trước. Các thỉnh nguyện thư chính gốc đã bị phá huỷ sau
trận hoả hoạn tại Hotel de Ville vào năm 1871. Tuy nhiên, theo tờ báo “Révolutions de Paris,” chúng ta biết rằng nội dung của nó
là:
“Xét sự kiện rằng tội của Louis XVI đã được chứng tỏ, nhà vua đã thoái
vị, phải nhận sự thoái vị và để yêu cầu một bộ phận cử tri đoàn mới để có thể xúc
tiến một hình mẫu đất nước mới với sự xét xử thành phần có tội và đặc biệt với
sự thay thế và tổ chức một cơ cấu hành chánh mới.”
Lafayette, viên tư lệnh của lực
lượng Vệ Binh Quốc Gia, đã ra lệnh giải tán những người đưa thỉnh cầu. Tại quảng trường Champ de Mars, ông ta đã ra
lệnh kéo cờ đỏ như một dấu hiệu cho biết vệ binh sẽ nổ súng nếu đám đông không
chịu giải tán. Sau đó, đám vệ binh của ông đã bắn vào những người biểu tình giết
chết chừng 50 người.
Dĩ nhiên, đây không phải là màn thảm sát lớn lao đầu tiên của cuộc Cách Mạng.
Tuy nhiên, lần đầu tiên, đó là hậu quả của một
xung đột chính trị công khai trong nội bộ tầng lớp thứ ba (thường dân) Paris, tầng lớp làm nên lịch
sử năm 1789. Cuộc trốn chạy của nhà vua và sự đáp ứng của Hội Đồng Quốc Gia đã
gây chia rẽ đất nước. Nhiều ngày sau biến cố thảm sát tại Champ de Mars, một phái
đoàn đến từ Chartres đại diện cơ quan chính quyền của tỉnh Eure-et-Loir được tiếp
nhận vào Hội Đồng Quốc Gia. Các phái đoàn đã diễn tả sự vui mừng rằng Hội Đồng đã
quyết định để cho Louis trở lại ngai vàng và Hiến Pháp sẽ được trình lên vua:
“Chúng thần đến để bảo đảm với Ngài bằng sự tín cẩn chân thành nhất rằng
nghị quyết này quyết định số phận của vương quốc đã được đón nhận trong niềm
vui và sự biết ơn của toàn dân chúng trong tỉnh, rằng nghị quyết chỉ làm tăng
thêm sự tin cậy, sự ngưỡng mộ đối với Ngài trong nhiều lãnh vực. Cuối cùng, chúng
thần đến để lập lại dưới bàn tay che chở của Ngài lời thề hứa trang trọng là sẵn
sàng đổ đến giọt máu cuối cùng cho sự hoàn
thành luật pháp và duy trì Hiến Pháp.”
Vào ngày 14 tháng Chín, vua Louis
ban hành Hiến Pháp mà nó biểu hiện là công sức làm việc của Hội Đồng từ năm
1789. Nước Pháp trở thành một một thể chế quân chủ lập hiến mà trong đó, quyền
lực được chia xẻ giữa nhà vua trong vai trò đứng đầu hành pháp, và hội đồng lập
pháp được bầu chọn qua một quyền bầu cử có giới hạn từ các công dân có tài sản.
Tuy nhiên, những vấn đề về sự trung thành của ông và có phải cuộc Cách Mạng đã
kết thúc vẫn còn lâu mới giải quyết được.
Phe dân chủ trong cậu lạc bộ Jacobin đi sát hơn với xu hướng cấp tiến của phong
trào quần chúng phổ thông, đáng chú ý nhất là cánh Cordelier. Ở bên ngoài nước
Pháp, các hoàng thân diễn tả sự quan tâm của họ cho sự an toàn của Louis và e
ngại rằng cuộc Cách Mạng sẽ lan rộng bằng những tuyên bố đe doạ từ Papua (5 tháng
Bẩy) và Pillnitz (27 tháng Tám). Vào dịp
kỷ niệm 2 năm ngày chiếm được Bastille 21 tháng Bảy 1791, các cuộc bạo loạn ủng
hộ Giáo Hội và nhà vua đã phá hủy căn nhà của nhà hoá học Joseph Priestley tại
Birmingham, một người bảo vệ mạnh mẽ cuộc Cách Mạng chống lại Edmund Burke. Bên
trong nội tình Pháp, tờ báo bảo hoàng Gazette de Paris của bá tước de Rozoi kêu
gọi một số người tự nguyện làm con tin để đánh đổi lấy tự do cho Louis. Hàng ngàn thư từ nhận được bao gồm trên 1400
của riêng Paris và số lượng lớn đến từ Normandy, vùng Tây Bắc, vùng Alsace và
Guyenne. Tại các thị trấn trong cả khu vực phía Tây, hầu tước de la Rouerie đã
thành lập những ủy ban bảo hoàng bí mật. Trái lại, tại vùng dân Tin Lành bá chủ như làng
Lourmarin, hội đồng thị xã lại thỉnh cầu Hội Đồng Quốc Gia cấp thiết trục xuất
con quái vật chuyên chế phong kiến đi, để miền quê, cho tới lúc này vẫn bị cô lập,
sẽ trở nên thành lũy mạnh mẽ nhất cho cái mà họ mệnh danh là “nền Cộng Hoà.”
Chính trong cái bối cảnh gánh nặng
chồng chất này mà một ủy ban lập pháp mới được bầu chọn và hội họp tại Paris vào
tháng Mười 1791. Uỷ ban gồm những người
mới theo sau một sắc lệnh do Robespierre đề
xướng lên Hội Đồng Quốc Gia mà nó loại bỏ những người kiến tạo ra cái khung sườn của Hiến
Pháp ra khỏi những người hoàn thành nó.
Ngay từ khởi đầu, hầu hết các thành viên tìm cách củng cố tình trạng của
cuộc Cách Mạng như được trình bày trong Hiến Pháp và rời bỏ phe Jacobins để
theo phe cánh Feuillants, một phe được đặt tên tương tự theo nơi chỗ họ hội họp
tại một tu viện cũ. Tuy nhiên, sự thù ghét nổi lên từ những đối thủ của cuộc Cách
Mạng, cả trong và ngoài nước Pháp, đã chú trọng tới sự quan tâm của các đại biểu
vào phong trào phản Cách mạng đang tập
trung ở Coblez nơi hoàng thân d’Artois đã theo chân người anh trai hoàng thân
de Provence di tản vào tháng Bẩy. Đám sĩ quan của quân đội hoàng gia bắt đầu rã ngũ, với trên 2100 sĩ quan quý tộc
di tản giữa 15 tháng Chín và 01 tháng Mười Hai 1791 và lên tới 6000 tính cả năm.
Trong bối cảnh này, các đại biểu ủy ban lập pháp ngày càng lo lắng, những người
đã cam kết với chủ đề của phe Feuillant
để củng cố Cách Mạng dưới sự lãnh đạo của nhà vua và Hiến Pháp
đã cảm thấy áp lực bởi những bài diễn văn kích động của một nhóm trong cánh
Jacobin dẫn đầu bởi Jacques-Pierre Brissot, người đã đổ lỗi những khó khăn của
Cách Mạng là từ những âm mưu nội địa có nối kết với kẻ thù nước ngoài.
Như Timothy Tackett đã phơi bày bằng
cách phân tích những bài diễn văn và thư từ của các đại biểu, có một sự gia tăng
đáng ngại về sự sợ hãi các âm mưu trong những tháng sau ngày nhà vua trốn chạy.
Những buổi diễn thuyết vang dội bên ngoài Hội Đồng. Vào ngày 16 tháng Mười
1791, những người ủng hộ sự sát nhập vùng lãnh thổ thuộc Giáo Hoàng quanh vùng
Avignon đã sát hại 60 địch thủ của họ đang bị cầm tù trong cái lâu đài cũ của các
Giáo Hoàng. Cuộc nổi loạn của hàng trăm ngàn dân lai và dân nô lệ tại
St-Dominique, khởi đầu vào tháng Tám 1791 đã tạo áp lực ủy ban lập pháp tăng thêm
quyền bình đẳng dân sự cho tất cả các dân da màu có tự do. Sự quan trọng của các
thuộc địa Caribbean đối với nền kinh tế nước Pháp đã thuyết phục thêm các đại
biểu về những ý định gian dối của Anh Quốc và Tây Ban Nha đối thủ của Pháp.
Những người theo phe Brissot đã tác
động lên Hội Đồng Quốc Gia. Trong một cuộc tranh luận về vấn đề di cư,
Vergniaud tuyên bố rằng “một bức tường âm mưu” đã được tạo lập chung quanh nước
Pháp. Isnard bày tỏ sự lo sợ rằng “hàng loạt các âm mưu” đang chuẩn bị nổ bùng
và rằng chúng ta đang bị ru ngủ với một cảm giác an toàn sai lạc. Vào ngày 09
tháng Mười Một, Hội Đồng thông qua một bộ luật áp đảo, có hiệu lực tuyên bố việc
đặt ra ngoài vòng pháp luật đám di dân nếu họ không quay về nước vào đầu năm mới.
Những người Pháp này tập trung bên
ngoài biên giới nước Pháp, kể từ lúc này, bị
coi là tình nghi có âm mưu chống lại tổ quốc, Nếu vào ngày 1 tháng Giêng
1792 họ vẫn còn tập trung tại đó, họ sẽ bị tuyên bố tội âm mưu chống lại nước Pháp. Như vậy họ sẽ bị xét xử và
phạt tội tử hình.
Ba ngày sau đó, nhà vua đã dùng
quyền phủ quyết để ngăn chặn bộ luật này.
Phe cánh Brissot đã tranh cãi rằng
cuộc Cách Mạng sẽ không thể an toàn cho tới khi sự đe doạ từ quốc ngoại này bị
đập tan. Một cuộc đụng độ quân sự với nước
Áo và Phổ có thể sẽ ngắn ngủi bởi vì sự chào đón các thường dân tại những nước
trên sẽ mang đến cho người anh em của họ được giải phóng, sẽ phô bày ra những
cuộc phản Cách Mạng nội địa ở trong cái vạc dầu sôi sục sự xung đột vũ trang giữa
Âu Châu mới và Âu Châu cũ. Trong cái nghị
quyết ngày 22 tháng Năm 1790 đặt quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh hay hoà bình vào tay Hội
Đồng Quốc Gia hơn là trong tay nhà vua, Hội Đồng đã tuyên bố rằng “nước Pháp phủ nhận gây nên bất cứ cuộc chiến
nào với mục tiêu chinh phục hay xâm chiếm, và nước Pháp sẽ không bao giờ dùng
vũ lực chống lại quyền tự do của bất cứ ai.” Vào đầu năm 1792, một sự hỗn hợp giữa lo âu, vui mừng và sợ hãi như vậy tràn ngập Hội Đồng Quốc Gia mà hầu hết các đại
biểu đã tự nhủ rằng các vua cai trị Áo và
Phổ đặc biệt đã tỏ ra hung hãn đối với Cách Mạng. Họ được khuyến khích với sự lạc quan qua sự thúc giục của đám dân tỵ nạn chính trị
tại Paris lúc này đã tự thành lập một lực lượng tới 54 đại đội tình nguyện quân sẵn sàng lên
đường giải phóng quê hương. Vào ngày 20 tháng Tư 1792, Hội Đồng Quốc Gia tuyên
bố rằng:
“Nước Pháp, đúng như những nguyên tắc thiết lập trong Hiến Pháp, sẽ không
tham gia vào chiến tranh với mục tiêu xâm lăng để chinh phục, và sẽ không bao
giờ xử dụng lực lượng vũ trang chống lại tự do của một con người. Nước Pháp chỉ
cầm vũ khí lên để duy trì tự do và độc lập của mình. Cuộc chiến mà Pháp bắt buộc
phải hỗ trợ thì không phải là một cuộc chiến giữa 2 đất nước, nhưng là một sự
phòng vệ chính đáng chống lại sự hung hãn vô lý của một ông vua.”
Cuộc chiến có thể sẽ phô bày ra sự
đối nghịch nội địa như Brissot đã hy vọng, nhưng nó không bị giới hạn, cũng chẳng ngắn ngủi. Với bản “Hiến Pháp Dân Sự cho giới Giáo Sĩ,” nó đánh
dấu một trong những khúc quanh của thời kỳ Cách Mạng, ảnh hưởng đến lịch sử nội
tình nước Pháp trong 23 năm. Trong vài
tháng chiến tranh xảy ra, đã có hàng loạt kết quả chính yếu. Thứ nhất, nó lập tức gây hy vọng và phần thưởng
của việc phản Cách Mạng bằng sự thêm vào nhiệm vụ quân sự cho những cộng đồng
di dân nhỏ đã sẵn đắng cay đang lưu vong tại Âu Châu, đặc biệt tại Coblenz. Không
chỉ có những thành viên của những người ưu tú cũ ở trong nước Pháp, đặc biệt là
triều đình, những người coi việc bị đánh
bại là một cách để đập tan Cách Mạng, nhưng
những thất bại lúc đầu mà đội quân Cách
Mạng vì thiếu tổ chức đã phải chịu đựng, cũng được đám quý tộc di tản và đám sĩ
quan quân đội chào đón với kỳ vọng lấy lại
một chế độ cũ được trẻ trung hoá.
Thứ hai, trong khi cuộc phản cách mạng lúc này cũng có thể
nhắm tới việc chiến đấu trong một cuộc thánh chiến để lấy lại tôn giáo, bên
trong nước Pháp, cuộc chiến đã làm cho vị trí của các giáo sĩ không chịu thề hứa
trở nên không thể dung thứ. Vào ngày 27
tháng Năm, họ được lệnh phải rời bỏ đất nước nếu bị 20 công dân tố giác, một điều
luật mà đã bị nhà vua phủ quyết. Đối với những người tìm kiếm một mục tiêu sẵn
sàng để đổ lỗi cho những khó khăn mà Cách Mạng
lúc này đang đối diện, giới giáo sĩ là mục tiêu rõ ràng nhất. Không phải
chính Giáo Hoàng đã chúc phúc cho đám quân ngoại quốc tàn sát người dân Pháp
sao? Một cựu linh mục đang cử hành thánh lễ
cho dòng nữ tu Ursuline chuyên ngành giáo dục tại Lille vào ngày 29 tháng
Tư đã bị sát hại trong một sự trả thù giận dữ khi đoàn quân Cách Mạng rút lui
trong rối loạn sau trận chiến bại đầu tiên với quân Áo. Trong vòng vài tháng sau, các nữ tu Ursulines
bị trục xuất và tu viện bị đóng cửa. Trong khi hầu hết băng qua biên giới đi vào vùng Austrian
Flanders lánh nạn, 13 người trong số họ mà nhiệm vụ buộc họ phải ở lại, sau đó đã
bị hành hình với tội danh hoạt động phản cách mạng trong việc hỗ trợ quân thù.
Một kết quả thứ ba là chiến tranh
đã làm hồi sinh cuộc Cách Mạng quần chúng. Sau lời kêu gọi các công dân tình
nguyện đi chiến đấu vào thời điểm mà nạn lạm phát trở nên tồi tệ, những đòi hỏi
về chính trị và xã hội của giới lao động đã trở nên kiên quyết và khó khăn hơn
để từ chối. Trong số họ có các phụ nữ nhất quyết đòi tham gia tích cực vào nỗ lực
chiến tranh. Một thỉnh nguyện thư từ hiệp hội Fraternelle des Minimes với 300
chữ ký (trong đó có chữ ký của nhà hoạt động Pauline Léon) được đệ trình trước ủy
ban lập pháp:
“Các người cha, chồng và con trai của chúng tôi có lẽ đã là nạn nhân của
sự phẫn nộ của kẻ thù của chúng ta. Lẽ nào chúng tôi bị cấm đoán trả thù cho họ
hay được chết bên cạnh họ? Chúng tôi chỉ ước muốn được phép tự bảo vệ. Quý vị
không thể từ chối chúng tôi, và xã hội cũng không thể từ chối chúng tôi quyền
chính đáng tự nhiên sẵn có, trừ khi có tuyên bố cho rằng bản Tuyên Ngôn về các
quyền hạn không áp dụng cho phụ nữ.”
Hội Đồng đã không thèm để mắt tới
thỉnh nguyện thư.
Những tháng khởi đầu của chiến
tranh là một thảm kịch cho quân Cách Mạng đang ở trong tình trạng rối loạn do hậu
quả số lượng lớn các toán sĩ quan đào ngũ. Việc Louis sa thải đám Brissotin hay các bộ
trưởng “ái quốc” ngày 13 tháng Sáu đã làm dấy lên một cuộc xuống đường một tuần
sau đó. Trong các biểu ngữ diễu hành qua
trước mặt nhà vua có vài tấm mang những tiêu đề như “Hỡi bọn độc tài đang run sợ, đây là tổ chức Sans- Culottes. Khoảng giữa năm 1791, những
nhà dân chủ tích cực trong số thường dân bỗng được biết đến tên tuổi qua từ ngữ
mới Sans-Culottes này, một từ ngữ vừa có ý nghĩa là một nhãn hiệu chính trị cho
sự chiến đấu yêu nước và một sự diễn tả thực
tiễn cho cánh đàn ông không mặc quần chẽn (loại đồng phục quân sự ngang tới đầu
gối) và đi vớ của tầng lớp phụ nữ ở giai
cấp thượng lưu. Ở thời điểm mà các phụ nữ
cấp tiến, những người đàn bà không mặc đồ lót giống như phụ nữ thượng lưu, được
biết đến như những người Sans Jupons (không mặc váy). Đó là hoạt động chính trị trong số các thường
dân: không phải là một giai cấp lao động hưởng lương mà là một hỗn hợp các thợ
thủ công, chủ tạp hoá và người lao động. Cũng chính cái thời điểm này mà việc xử
dụng từ ngữ “công dân” và “nữ công dân”
trở nên một dấu ấn của nhiệt tâm yêu nước.
Cái hình ảnh thể lực mãnh liệt như
thế hoàn toàn trái ngược với sự nhạo báng thô tục về vua và hoàng hậu. Như Antoine de Baecque biện luận, con người mới
của Cách Mạng được mường tượng như một người cường tráng về chính trị và thể chất,
đối nghịch với hình ảnh diễu cợt của giới quý tộc như một lũ suy đồi cả thể lực và luân lý.
Trong các báo chí, bài ca, nhạc kịch
và các bích chương, thời kỳ 1789 – 1792 là một kỷ nguyên vĩ đại về sự châm biếm
man rợ, đặc biệt những trò tấn công vô liêm sỉ vào các đối thủ chính trị, do có
sự chấm dứt chế độ kiểm duyệt chính trị ở một thời điểm khi văn chương dân gian
đã được phân biệt qua sự hỗn hợp sự chế nhạo thô tục, chống lại phẩm trật giáo
sĩ và sự vu khống chính trị. Không chỉ những nhà Cách mạng xử dụng những tự
do mới, những người viết bảo hoàng như
Gautier, Rivarol, Suleau và Pelier đã đưa sự lạm dụng này đến cực độ, như việc nhại Brissot là “Black Bis-sot” ( thằng bạn ngu ngốc
gấp đôi của lũ mọi đen) hay
chế diễu sự đồng tính (gay) của tay hầu
tước ủng hộ Cách Mạng de Villette, hoặc chỉ trích Pétion là “ Pet-hion” (cái rắm của con lừa) hay
khinh bỉ Théroigne de Méricourt là một
con điếm “có 100 tình nhân, mỗi ngày, mỗi người trả 100 xu cho những
“đóng góp lòng yêu nước”.
Trong cái thế giới lên cơn sốt với
màn tấn công biếm nhã và bẩn thỉu này, nhà vua và hoàng hậu trở thành những mục
tiêu dễ bị tổn thương cho các nhà Cách Mạng. Đặc biệt, Hoàng hậu Marie-Antoinette
bị tấn công không ngớt về những tố giác các hành vi dâm đãng đồi bại và lạm dụng
quyền lực chính trị của bà làm suy nhược chế độ quân chủ. Trong một tình trạng
như vậy, cuộc khủng hoảng quân sự đã làm cho vị thế của vua vô cùng bấp bênh.
Trong việc xử dụng quyền phủ quyết để ngăn chặn những mảng luật pháp thiết yếu
(như chấm dứt trả lương cho các linh mục không tuyên thệ, ra lệnh di dân phải
quay về nước và giáo sĩ không tuyên thệ phải ra đi, chiếm giữ tài sản của di dân
và triệu các quân tình nguyện đến Paris), nhà vua dường như
đã hành động theo lợi ích của hoàng đế
nước Áo, một người cháu trai của hoàng hậu.
Có lẽ nào không coi những thất bại quân
sự kể từ tháng Tư như là chứng cớ của điều trên, cũng như khi nhìn lại màn trốn chạy bất thành của vua
vào tháng Sáu 1791 chăng?
Trong ngày 11 tháng Bẩy, Hội Đồng
Quốc Gia bị buộc phải công khai tuyên bố
trước quốc dân rằng đất nước trong tình trạng nguy hiểm và kêu gọi một sự
hoàn toàn ủng hộ trong tinh thần tự hy sinh:
“Quý vị có cho phép những đoàn quân ngoại tràn lan khắp nước như giòng
nước lũ hay không? Có để bọn chúng phá hoại mùa màng của chúng ta không? Có để
chúng đốt phá quê hương và tàn sát chúng ta? Tóm lại: có để bọn chúng khuất phục
chúng ta bằng những xiềng xích nhuộm máu của những người thân yêu nhất của chúng
ta?”
Vào đầu tháng Tám, cư dân Paris
biết được một tuyên ngôn do quận công của Brunswick, một viên tướng tư lệnh quân
đội Phổ ban hành. Ngôn ngữ của nó đã gây nên giận dữ và quyết tâm qua sự đe dọa
rằng họ sẽ ra tay thực thi công lý đối với người dân Paris nếu như Louis và hoàng
gia bị hại:
“Các ngươi sẽ đón nhận một sự trả thù thật đáng ghi nhớ mãi mãi và làm
gương, bằng một sự đầu hàng thành phố Paris cho hành động trừng trị quân sự và
một sự phá hủy hoàn toàn, và những kẻ nổi
loạn mang tội ám sát, sẽ nhận sự trừng trị xứng đáng.”
Sự đe doạ thêm vào lời buộc tội
phổ quát rằng vua Louis đã đồng loã với những thất bại mà quân đội chịu đựng. Để
đáp trả, ngoại trừ 1 trong 48 phiên họp tại Paris, tất cả đều bỏ phiếu thiết lập Công Xã Paris để tổ chức sự hồi sinh
và thành lập một đạo quân 20,000 quân sans-culottes từ trong đạo quân Vệ Binh
Quốc Gia mới dân chủ hoá. Được Liên Bang toàn quốc tham gia, các người tình
nguyện từ mọi miền đất nước lên đường ra mặt trận. Đạo quân Sans- culottes này
do Santerre và một số viên chỉ huy từ các phe phái lãnh đạo đã tấn công và chiếm
giữ hoàng cung Tuileries vào ngày 10 tháng Tám. Trong số phụ nữ dính líu vào trận
chiến đấu có Théroigne de Méricourt, đã nổi danh cùng với Pauline Léon trong việc
biện hộ cho phụ nữ có quyền mang vũ khí.
Sau khi vua Louis đi lánh nạn ở một hội đồng gần đó, 600 vệ binh Thuỵ Sĩ là những
người lính bảo vệ chính của cung điện đã bị sát hại trong cuộc chiến hay từ những
hành vi trả thù đẫm máu sau đó.
Vua Louis đã có thể tự cứu ngai vàng
của ông nếu nhà vua chấp nhận một vai trò ít quan yếu hơn trong chính quyền hoặc
nếu ông đã không quá phân vân lưỡng lự. Tuy nhiên, sự sụp đổ của nhà vua cũng gây
ra vì sự cố chấp của hầu hết quý tộc và lý lẽ của việc chính trị hoá quần chúng
tại một thời điểm của sự đổi thay và khủng hoảng đầy bi kịch. Sự tuyên chiến và
những thất bại quân sự sau đó đã làm cho vị thế nhà vua lung lay tận gốc. Cuộc
khủng hoảng mùa hè năm 1792 là khúc quanh
chủ yếu của cuộc Cách Mạng. Qua sự lật đổ nền quân chủ chuyên chế, phong
trào quần chúng đã tạo nên một cách hữu hiệu
sự thách thức cuối cùng đến toàn
thể Âu Châu. Trong nội bộ, lời tuyên chiến và lật đổ chế độ quân chủ đã cải tiến
Cách Mạng. Việc loại trừ những công dân “tiêu cực” trên phương diện chính trị bây
giờ lại kêu gọi họ đi bảo vệ nền Cộng Hoà
trở nên không thể thực hiện. Nếu Cách Mạng muốn tồn tại thì họ phải kêu gọi lực
lượng trừ bị của toàn thể đất nước.
Việc thất bại quân sự vào mùa hè
1792 một lần nữa lại mang đến cho các linh mục với những câu hỏi căn bản nhất về
sự trung thành của họ. Nhiều người trong số đã chấp nhận vai trò mới như những
công dân linh mục với trách nhiệm là để củng cố quyết tâm của tín đồ trong giáo
xứ của họ. Tuy nhiên, vị thế của các giáo sĩ không tuyên thệ lúc này (đối với Cách
Mạng) trở nên không thể chấp nhận. Vào ngày 23 tháng Tám, Hội Đồng Quốc Gia đã
yêu cầu tất cả giáo sĩ không tuyên thệ phải rời bỏ nước Pháp trong thời hạn 7 ngày: “Xét rằng sự bất ổn trong nước là do sự kích
động của các giáo sĩ không chịu tuyên thệ chính là một trong những nguyên nhân chính
gây nguy hại cho tổ quốc.”
Sau đó, vào ngày 2 tháng Chín, tin
tức bay về Paris rằng cái đồn lũy lớn tại
Verdun chỉ cách thủ đô 250 cây số và là chướng ngại vật chính yếu cuối cùng ngăn
quân xâm lược đã rơi vào tay quân Phổ. Tin tức đã làm phát sinh một làn sóng đột
biến bi hùng về nỗi sợ hãi và lòng quyết tâm của quần chúng. Tin tưởng rằng bọn
phản Cách Mạng ở trong tù (dù là quý tộc, giáo sĩ hay bọn tội phạm thông thường)
đang chuẩn bị phá ngục và chào đón đoàn quân xâm lược, một khi những người tình
nguyện đã đi mặt trận ngoài tiền tuyến, các toà án nhân dân đã vội vã hội họp và
tuyên bố tử hình khoảng 1200 trong số 2700 tù nhân được đem ra xét xử. Trong số
này có khoảng 240 linh mục. Đây là chứng cứ cuối cùng cho các giáo sĩ không tuyên
thệ tin rằng Cách Mạng đã trở nên vô thần và vô chính phủ. Mặt khác, những người
xét xử tù nhân đã đơn giản tin tưởng vào sự cần thiết và ngay cả công lý trong hành động này của họ. Một người trong họ
đã viết thư về nhà rằng: “chính sự cấp thiết
đã làm cho việc hành quyết này không thể tránh khỏi…Thật đáng buồn khi phải đi
đến bước này, nhưng (như họ nói) giết bọn ác quỷ đi thì tốt hơn để chúng giết mình.”
Một người khác trong số họ đã lấy trộm
chiếc khăn tay từ trong bộ quần áo của một tử thi cũng đã bị những người khác hành
hình vì hành vi vô văn hoá này.
Restif de la Bretonne, người chứng
kiến tận mắt các cuộc sát hại có lẽ là một quan sát viên cuộc Cách Mạng Paris sắc
sảo và thông tin đầy đủ nhất. Restif đã
kinh hoàng vì những gì ông chứng kiến và đã cố tự thuyết phục rằng bọn “ăn thịt
người này” không phải là những cư dân của thành phố thân yêu của ông. Ông cảm thấy thật khó để diễn tả cái chết của
công chúa de Lamballe, một người bạn tri kỷ của hoàng hậu Marie – Antoinette và
cùng bị giam giữ với bà tại nhà tù La Force:
“Cuối cùng, tôi thấy người phụ nữ xuất hiện xanh xao gầy guộc trong bộ
đồ ngủ do một người dìu đến. Họ nói với bà bằng một giọng quát tháo: “Hô to lên:
Tổ quốc muôn năm” Bà trả lời “không, không” Họ dìu bà bước qua hàng đống xác chết.
Họ lại bảo bà hô lên câu tổ quốc muôn năm. Bà từ chối một cách khinh bỉ. Sau đó
một tay đao phủ nắm lấy bà xé toạc quần áo bà và rạch bụng bà ra. Bà ngã xuống và những tên khác đến kết liễu vụ
hành hình. Chưa bao giờ trong trí tưởng
tượng của tôi có cảnh tượng khủng khiếp như thế. Tôi cố gắng thoát đi, nhưng chân
tay tôi cứng lại. Tôi ngất xỉu.”
Trong sự phản ánh lại sự việc,
Restif viết thật khá rõ ràng về động lực đằng sau cuộc tàn sát. Đó không đơn giản
là một hành động khát máu vô tri:
“Vì vậy, động cơ thực sự của hành động cuồng sát này là gì? Nhiều người
nghĩ rằng thực sự đó là những kẻ tình nguyện ra mặt trận sẽ không để lại vợ con
họ tuỳ thuộc vào sự độ lượng của bọn côn đồ đã được toà án ân xá thả ra hoặc do
một số người xấu giúp đỡ chúng trốn thoát. Tôi đã muốn biết sự thật và tôi cuối
cùng đã khám phá ra. Họ chỉ muốn một điều: đó là loại bỏ những linh mục không
chịu tuyên thệ. Một số người còn muốn loại trừ tất cả.”
Những nhà Cách Mạng nổi tiếng, đáng
kể nhất là Danton và Marat đã thông cảm cho sự tàn sát đó cũng như cả Công Xã
Paris. Sau này, họ đã bị những đối thủ của họ chế nhạo là “bọn (máu lạnh) tháng
Chín”. Chưa bao giờ Cách Mạng thấy một cảnh tắm máu khủng khiếp như vậy. Đối với
các nhà viết sử như Simon Schama, Norman Hampson and franҫois Furet, sự leo
thang các vụ trừng phạt bạo lực là kết quả của một Cách Mạng không bao dung đã có thể nhận biết từ năm
1789: sự phản cách mạng là một sự tạo nên một sự hoang tưởng cách mạng và khát
máu quần chúng. Những cuộc tàn sát tháng Chín đã được Schama diễn tả như là “sự
thật trần truồng của cuộc Cách Mạng.” Một
lối giải thích khác từ Hampson đã nhấn mạnh đến những hệ tư tưởng “có từ ngàn năm” hơn là sự xung đột
xã hội như là nguyên nhân của sự sụp đổ
tính đồng thuận. Có nghĩa là các nhà cách mạng đã bị ám ảnh với viễn tượng của
một xã hội thanh tẩy và tái sinh.
Những tranh luận như thế làm giảm
thiểu sự vươn tới những kẻ nội thù và giặc ngoại xâm mà người Cộng Hoà phải đối
diện và bỏ qua những đe doạ bạo động do những kẻ bảo hoàng chủ trương. Ngay trước
ngày 10 tháng Tám, báo chí cánh hữu đã xuất bản những danh sách “người ái quốc”
mà quân Phổ có thể sẽ hành hình khi chúng tiến vào Paris, kèm theo với những hình
ảnh khủng khiếp của dòng sông Seine bị bóp nghẹt với phe Jacobins và đường phố
ngập máu của đám Sans- Culottes. Vào mùa hè 1972, tiền thưởng để đi chiến đấu
cho nước Pháp và Tây Âu châu cao đến nỗi một cuộc thanh trừng triệt để của kẻ
thù cho cả hai phía dường như là cách thức duy nhất để duy trì hay đè bẹp Cách
Mạng.
Sự cấp tiến hoá Cách Mạng cũng khuyến khích Hội
Đồng Quốc Gia cuối cùng đã giải quyết được vấn đề bồi thường cho những thuế phí
lãnh chúa đã bị xoá bỏ. Ngay từ khởi đầu
của những câu hỏi trong cuộc tranh luận thời tiền Cách Mạng lên quan đến sự kiểm soát
các nguồn tài sản ở miền quê và liệu việc
không bị các loại thuế phí lãnh chúa cản trở đã là cốt lõi trong chính trị tại
miền quê. Đi qua hầu hết các vùng xa xôi nước Pháp, sự đáp trả cho sự lảng tránh
của Hội Đồng Quốc Gia vào tháng Tám 1789 đối với việc xoá bỏ cuối cùng chế độ lãnh
chúa đã làm lan rộng việc không bất tuân dân sự và cả nổi loạn chống lại những
thực thi này mà Hội Đồng dường như đã do dự trong việc xoá bỏ. Sự việc này kéo dài cho tới khi có sự
loại bỏ chủ nghĩa lãnh chúa lần cuối vào những năm 1792-1793.
Những do dự trong các buổi họp kế
tiếp về việc xoá bỏ thẳng thừng chế độ lãnh chúa đã đổ thêm dầu vào các cuộc nói
chuyện hỗn hợp giữa giới nông dân và người
làm luật, trong đó các cộng đồng vùng quê xa xôi, bằng các phương tiện cả hợp
pháp lẫn bất hợp pháp, đã áp lực và đáp trả lại những buổi họp kế tiếp và đã làm
rõ những lựa chọn chính trị về cái ý nghĩa vỉ sao làm vậy. Đó là một diễn tiến
với 2 phương cách mà theo lời của John Markoff: “Khi những cuộc nổi loạn của
người nông dân ở trong bối cảnh thiết yếu
cho dự luật chống phong kiến, thì luật
chống phong kiến ở trong bối cảnh cần yếu cho hành động của người nông dân.”
Markoff đã tính toán rằng đã có 4688 biến cố chống đối trong khoảng 1788 và
1793, mà đã hết 36% trong số đó là phản đối chống lại chế độ lãnh chúa. Chỉ
trong tháng Tư 1792, đã có ít nhất 100 cuộc nông dân tấn công vào các lâu đài
được ghi nhận ở vùng tỉnh Gard. Trong ngày 25 tháng Tám, một vận động để chấm dứt
chế độ lãnh chúa được ủy ban Lập Pháp thông
qua. Các thuế phí về lãnh địa được xoá bỏ mà không có sự đền bù, trừ khi họ có
thể chứng minh là đã được phát sinh từ quyền nhượng đất đai với một hợp đồng có
giá trị hợp pháp. Về bản chất, chế độ phong kiến đã chết.
Sau đó vào mùa thu 1792, Cách Mạng
lại đã đi vào một cuộc cách mạng tiến hoá thứ hai. Lúc này, nó trở thành (cách
mạng) vũ trang, dân chủ và cộng hoà. Tuy nhiên, cái cảm giác hăng hái của sự hồi
sinh và quyết tâm mà từ đó những tháng ngày này mang sắc thái riêng thì lại hoàn
toàn trái ngược với năm 1789, bị tắt tiếng vì những màn tàn sát khủng khiếp tháng
Chín và tình trạng quân sự nguy hiểm
Khoảng 2 tuần lễ sau cuộc tàn sát,
quân Cách Mạng có được chiến thắng đầu tiên tại Valmy, cách thủ đô 200 cây số ở
phía đông. Khi tin tức bay về, tân Nghị Viện Quốc Gia vừa mới do cuộc đầu phiếu
phổ thông bầu chọn (mặc dù vẫn qua diễn tiến 2 vòng bầu cử) đã tập họp tại
Paris. Cuộc khủng hoảng quân sự là chủ đề chính đối diện 750 đại biểu này, nhưng
họ vẫn phải giải quyết số mệnh của vua Louis và
làm việc theo những xếp đặt hiến định
mới mà trong lúc này Hiến Pháp 1791 đã
không thể xử dụng. Thành viên trong hội nghị đã đoàn kết qua lý lịch xã hội và
những dự đoán chính trị. Với số lượng đông đảo thành phần tư sản, họ duy trì
cam kết đối với ước nguyện về một chế độ tự do trong kinh tế và bảo toàn cho các
tài sản tư. Họ cũng là những nhà dân chủ
và cộng hoà: ngay tức khắc trong hội nghị, họ xóa bỏ thể chế quân chủ tuyệt đối
và tuyên bố nước Pháp là một nước Cộng Hoà. Hầu hết khắp cả nước, tin tức đã là dịp để ăn mừng, luôn luôn bị suy giảm vì nhận thức tình trạng quân sự đang nguy nan của đất nước. Tại
Villardebelle, dưới chân rặng Pyrénées,
vị linh mục theo hiến pháp Marcou đã ăn mừng việc tuyên bố Cộng Hoà trong ngày
21 tháng Chín bằng cách trồng một cây tự do cho đến nay nó vẫn còn sống. Tại cảng Brest, những cái mũ tự
do có đường kính tới 80 cms được treo lên các mui tàu thuyền trong khi những cái
khác bằng gỗ được đưa cao tới các cột buồm.
Sự soạn thảo của hội nghị chứng tỏ
sự chuyển biến xã hội mà Cách Mạng đã làm.
Số lượng cựu quý tộc (23) và Giáo sĩ (46) trong đó rõ ràng không nhiều.
Thay vào đó hội nghị bao gồm các chuyên gia, viên chức, chủ đất, thương gia và
rải rác một số trang trại chủ và thợ thủ công.
Một trong số rất ít các công nhân lao động là Jean-Baptiste Armoncille,
một người thợ dệt tại Reims, người đã nói lên quan điểm qua việc tham dự hội
nghị trong bộ đồ công nhân của anh. Mặc
dù tương đối trẻ trung (2/3 trong số họ dưới 45 tuổi), các đại biểu đều có kinh
nghiệm trong chính trị địa phương và nhà nước sau ba năm Cách Mạng. Các hội đồng
thị xã phần nào có vẻ dân chủ hơn trong hội thảo. Tại các thành phố lớn của các vùng như
Amiens, Nancy, Bordeaux và Toulouse, giới tư sản vẫn làm bá chủ, nhưng giới thợ
thủ công và các chủ tiệm cũng chiếm từ 18 – 24% trong cả 4 thành phố. Tại những cộng đồng quê xa xôi cũng thế, những
năm 1792-1794 là thời điểm của sự bình đẳng xã hội đối với đám nông dân nghèo và
cả những người lao động cũng lần đầu tiên có đại diện trong các hội đồng.
Chính trong thời điểm này mà tác
phẩm “bài ca chiến tranh cho đoàn quân sông
Rhin” của Rouget de Lisle trở nên phổ biến. Được viết cho đội quân hoàng
gia bởi viên sĩ quan bảo hoàng này tại Strasbourg, bài ca đã bay xuống phía Nam
và được các nhà ái quốc Cộng Hoà thừa nhận tại Marseilles và Monpellier. Những người lính của Marseilles đã mang bài
ca đi theo họ, giờ được biết đến như
“khúc quân hành Marseillaise,” về thủ phủ của họ vào tháng Tám. Vào cuối tháng
Chín, tờ báo “Révolutions de Paris đã tường thuật:
“Tinh thần nhân dân vẫn lên cao cực độ.
Người ta phải thấy họ, phải nghe họ lập lại trong sự hợp ca cái điệp khúc của bài ca chiến
tranh “the Marseillaise,” mà các ca sĩ đứng trước bức tượng thần Tự Do tại vườn Tuilleries đã dạy họ mỗi ngày với sự thành
công.
Hãy tiến kên hỡi đàn con tổ quốc!
Ngày vinh quang đang tới gần chúng
ta
Mức độ khát máu của chế độ độc tài
Đã nổi lên chống lại chúng ta
Bạn có nghe thấy bọn lính hung tàn
này
Đang rống lên trên tnhững cánh đồng?
Chúng tràn vào ngay giữa nhà bạn
Để tàn sát vợ bạn con bạn
Hãy trang bị vũ khí hỡi các công
dân
Và thành lập đội quân của bạn
Hãy tiến lên, tiến lên
Để dòng máu ô uế đó tưới lên luống cày của chúng ta”.
Bên ngoài Paris, bài ca
Marseillaise được dùng cho các mục đích rộng rãi hơn. Vào ngày 21 tháng Mười, Đám dân Do Thái tại Metz thuộc miền Đông nước
Pháp tham gia cùng những người hàng xóm dân ngoại của họ ăn mừng chiến thắng của quân đội Pháp tại Thionville. Một người trong
họ là Moise Ensheim, một người bạn của Abbé Grégoire đã viết lại lời bằng ngôn
ngữ Hebrew cho bản Marseillaise mà ông ta xử dụng hình ảnh thánh kinh nối kết lịch
sử dân Do Thái với cuộc Cách Mạng:
“Hỡi nhà Jacob! Các người đã chịu
đựng quá nhiều đau khổ
Người ngã xuống chẳng phải vì lầm
lỗi của người…
Hạnh phúc cho người, hỡi đất nước
Pháp! Hạnh phúc cho người!
Vì kẻ muốn huỷ diệt người đã tan
tành thành tro bụi.”
Trong cùng một cách như vậy, cuộc giải phóng người Do Thái Chính Thống
hơn một năm trước đã có thể ăn mừng cùng lúc như một chiến thắng của Cộng Hoà.
Cái hình thức giải trí phổ thông có tổ chức quan trọng nhất trong cuộc
Cách Mạng Paris là các hý viện nhạc kịch. Một kiểu mẫu phong phú nhất về loại đại
hý viện này và cái tư tưởng chính trị thấm nhập vào nó là một vở nhạc kịch được
“công dân Gamas” viết vào mùa thu 1792. Đó là vở “Bọn di dân trên đất Áo hay Chương
cuối cùng của cuộc Cách Mạng vĩ đại,”
một hài kịch đã được trình diễn lần đầu tại Hi Viện Các Thân Hữu của người yêu nước tại Paris vào
tháng 11 năm 1792.
Trước thời gian này, đã có đến 2 thế kỷ của văn học hoang tưởng Âu Châu
về vùng đất Áo, một nơi lý tưởng cho các
tác giả vẽ vời một thế giới đảo nghịch tưởng tượng. Tại Pháp, sự quan tâm này còn nổi lên qua những
chuyện cổ tích về vùng Thái Bình Dương đã được Bougainville mang về. Đây là một
thứ văn chương nói về nước Pháp và những điều bất như ý hơn bất cứ vùng đất phía
Nam thực sự nào. Vở kịch ngắn của Marin Gamas, dù chỉ trong thể loại này, cũng
đặc biệt được ưa thích vì đó là vở kịch viết đầu tiên bằng bất cứ ngôn ngữ nào
về cái thuộc địa New South Wales mới của Anh Quốc. Nó được định vị trí tại vịnh
Botany Bay, được diễn tả trong vở kịch như vùng đất hoang vu chỉ rải rác đá sỏi
và vài túp lều.
Vở kịch gợi lên một sự hỗn hợp mạnh mẽ về những đạo đức ái quốc và sự
thù ghét cái Âu Châu cổ xưa của một hệ thống quý tộc rất điển hình trong những
tháng ngày này. Nó phác họa sự đấu tranh
của một nhóm di dân phản cách mạng đi lưu vong tại đất Úc xa xôi phải chấp nhận
số phận trong một trạng thái thiên nhiên. Các vai là những nhân vật khuôn mẫu bao gồm Thực Tâm (Truehart), viên đội trưởng Vệ Binh Quốc Gia, và những di
dân hoàng tử Khoe Khoang (Braggart), bá tước Lừa Đảo (Swindle), quan tòa Lầm Lỗi
(Blunder), Tu viện trưởng Nịnh Hót (Smarmy) và nhà tài chính Bám Hút (Leech) cùng ông thầy tu Tham Lam
(Greedy). Quý tộc và các di dân giáo sĩ vẫn ăn mặc trang phục bảnh bao cố hữu của
họ và không thể nào gác bỏ những thành kiến của họ, nhưng phải chấp nhận với đời
sống trong trạng thái thiên nhiên. Oziambo, tộc trưởng của người bản xứ, là một
đứa con được lý tưởng hoá của thiên nhiên, người thờ phượng một Đấng Tối Cao mà
không cần có bất cứ linh mục giáo sĩ nào. Quả thực, ông ta đã diễn tả một người
Paris nào đó theo chủ nghĩa chống Giáo Hội khi người này nhìn lầm viên tu viện
trưởng Smarmy trong áo choàng đen là một người đàn bà. Oziambo nhiệt tình học hỏi
Marhurin người thợ cày, “ân nhân của nhân loại và nói tiếng Anh thành thạo.”
Maruthin, một trong số “người thực sự hữu dụng nhưng thường bị khinh miệt tại Âu
Châu,” là vị anh hùng của vở kịch.
Oziambo công bố ông này là nhà lãnh đạo của thuộc địa: “Tình yêu của ông bạn này, sự can đảm, lòng
chính trực, tất cả là nghĩa vụ của ông. Không có gì thiêng liêng hơn. Người rảnh rỗi lười biếng là tai họa to lớn nhất của
bất cứ xã hội nào, và họ sẽ bị chúng ta
xua đuổi.” Vì vậy, viên tu viện trưởng Smarmy bị ngăn cản với mưu đồ của ông
ta muốn tự đặt mình vào vị trí đứng đầu người dân địa phương, biến dân bản xứ
thành một tầng lớp (thường dân) thứ ba mới. Ông ta cùng đám di dân kia bị kết án
phải sống một đời tự kiếm ăn để sống. Vở kịch kết thúc với bài ca gợi lên sự trừng
phạt cái tà tâm của con bạch tuộc nhiều vòi “chế độ độc tài” và sự hứa hẹn rằng: “những cánh tay mạnh mẽ của chúng ta sẽ mang đến tự do cho thế giới”.
Bài ca được hát theo giai điệu bài ca Marseillaise chỉ vừa mới xuất hiện tại
Paris vài tháng trước đó.
Cái ý nghĩa của Hội Đồng Nghị Viện rằng đó là cốt lõi của một cuộc đấu
tranh mang ý nghĩa quốc tế đã được cá nhân hoá qua sự có mặt, và cũng là đại biểu
được bầu chọn của 2 nhà cách mạng nước ngoài Tom Paine và Anacharsis Cloots.
Joseph Priestley đã được bầu chọn trong 2 tỉnh bang, nhưng ông từ chối vị trí của
ông. Họ là 3 trong số 18 người ngoại quốc, mà các quốc tịch khác biệt của họ đã
mang lại lý lẽ cho sự trưởng thành hiện tại của Cách Mạng, và đã được nhận là các
công dân danh dự của nước Pháp, cùng trong số những người khác là anh hùng của
cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và nền Cộng Hoà (James Madison, Alexander Hamilton,
George Washington), các tay cấp tiến đế
quốc Anh và Âu Châu (William Wiberforce,
Jeremy Bentham, Thaddeus Kosciuszko) và các nhà giáo dục Đức và Thuỵ Sĩ Campe và
Pestalozzi:
“Những con người này, qua những
bài viết và sự can đảm của họ, đã phục vụ cho sự tạo nên tự do và sẵn sàng giải
phóng nhân dân, họ không thể bị coi là người ngoại quốc từ một đất nước đã lấy
lại tự do từ kiến thức và sự can đảm của họ.”
Mặc dù có sự đồng thuận đáng kể
trong hội nghị, vào mùa thu và mùa đông 1792-1793, Hội nghị có khuynh hướng phân
chia thành ba nhóm bỏ phiếu khá tương đồng của Paris được nhóm Jacobins áp đảo với 20 thành viên của họ trong số 24 đại
biểu của nó từ sự nổi bật của Robespierre, Danton, Desmoilins và Marat, đưa đến
kết quả có khuynh hướng coi Jacobins đồng nghĩa với Paris. Tuy nhiên, giống như nhóm Girondins đối thủ của
họ, trên hết đó là một khuynh hướng chính trị mang tính toàn quốc.Trong lãnh vực
xã hội và chính trị, nhóm Jacobins có phần nào đó đi sát hơn với phong trào quần
chúng phổ thông và thói quen của họ là tập trung ngồi trên những hàng ghế trên
cao ở bên trái của Hội Nghị làm họ nhanh chóng có biệt danh “ngọn núi” và một hình ảnh của chế độ cộng
hoà không thoả hiệp. Biệt hiệu Girodins
biểu lộ những người gần gũi ủng hộ hơn đối với giới tư sản cao cấp của
Bordeaux, thủ phủ của vùng Gironde, nơi những đại biểu Vergniaud, Guadet và
Gensonné đã được bầu chọn và vùng thuộc địa và việc buôn bán nô lệ bị xáo trộn
vì cuộc Cách mạng và chiến tranh. Một nhóm đông đảo các đại biểu không theo phe
nào bao gồm Sieyès và Grégoire ngả theo ủng hộ phía sau 2 nhóm trên tuỳ theo từng
vấn đề.
Ngay từ khởi đầu, sự thực thi và
thái độ chính trị trên một số vấn đề thiết yếu đã chia rẽ các đại biểu. Vấn đề đầu tiên là việc xét xử nhà vua. Chính
vua Louis đã được (tuyên bố) phục hồi danh dự trong sạch trong suốt thời gian xét
xử. Liên tiếp lập lại, khi những người tố
cáo theo đuổi cái danh sách các cuộc khủng hoảng mà Cách Mạng phải đối diện kể
từ 1789, chẳng hạn như vụ tàn sát tại quảng trường Champ de mars ngày 17 tháng
Bẩy 1791, nhà vua chỉ đáp lại rằng: “chuyện gì xảy ra trong ngày 17 tháng Bẩy đó
chẳng liên quan gì tới Trẫm.” Trong
khi các đại biểu hiện diện trong phiên toà xét xử vua đồng thuận về việc vua có tội, nhóm Girodins đặc biệt lý
luận rằng số phận của vua tùy thuộc vào cuộc trưng cầu ý dân, và rằng nhà vua
không thể bị kết án tử hình hay nhà vua nên được tha thứ. Các điều khoản luật
chuyên biệt trong Hiến Pháp 1791 dường như ủng hộ vị thế hợp pháp của họ:
“Cá nhân nhà vua là bất khả xâm phạm và thiêng liêng. Danh hiệu duy nhất
của ngài là vua nước Pháp… Nếu nhà vua đặt mình vào vị trí đứng đầu quân đội và
chỉ đạo các lực lượng đó chống lại đất nước, hay bằng một tuyên bố chính thức,
nếu nhà vua không chống đối bất cứ một hành động nào nhân danh nhà vua, ngài sẽ bị coi như đã thoái vị khỏi
ngai…
Sau khi thoái vị, nhà vua sẽ được phân loại giống như một công dân và
như vậy, nhà vua có thể bị tố cáo và xét xử cho những hành vi sau sự thoái vị của
vua.”
Đối lại, sự mạnh mẽ trong luận điệu
của nhóm Jacobin trong cuộc tranh luận đầy hùng hồn và kịch tính này là việc
cho rằng dung tha cho Louis có nghĩa là thừa nhận bản năng đặc biệt của nhà vua: “Bộ
Louis Capet không phải là một công dân đang mang tội phản quốc hay sao?”
Robespierre, Marat và Saint-Just tranh cãi rằng, là một kẻ phạm pháp, đơn giản
là ông ta nên bị trừng trị tức khắc: nhân dân đã phán xét ông rồi. Tuy nhiên, hầu
hết người trong nhóm Jacobins đòi hỏi một phiên toà đầy đủ: sự trốn chạy của nhà
vua đã hoàn toàn hủy hoại bất cứ một sự bảo vệ nào qua Hiến Pháp và lúc này, ông
ta nên bị xét xử giống như bất cứ kẻ bị tố giác phản quốc nào. Trong phiên họp 2 ngày 16 và 17 tháng Giêng, 361 đại biểu đã
bỏ phiếu kết án tử hình, 360 người khác chọn các hình phạt khác. Nhóm Jacobins
sau đó đã đánh bại lời kêu gọi cuối cùng của nhóm Girondins cho sự khoan hồng với
số phiếu 380 và 310. Nhiều người đồng ý
với nhóm Jacobins: tại Bordeaux, thủ phủ của chính nhóm Girondins, hiệp hội nữ
công dân thân hữu của tự do đã tố cáo Louis về việc:” ông đã đánh vào kẻ thù của ông trong bí mật với chính vàng bạc nhà vua
có trong tài sản của mình, bảo vệ đám
linh mục phe phái chuyên gieo mầm mống rối loạn và chia rẽ nội bộ. Ông mang
quân đội đi chống lại Tổ Quốc. Ông ra lệnh tàn sát thần dân của mình. Và vì thế
có nên khoan dung hay chỉ truất phế cho một kẻ đã gây ra nhiều máu đổ như thế
không? Không, ông ta phải bị rơi đầu. Hỡi các đại biểu dân, quý vị phải hoàn
thành ước nguyện của Cộng Hoà, Quý vị phải thực thi công lý…”
Louis bị xử tử hình vào 21 tháng
Giêng với sự dũng cảm. Nhà vua bước tới cạnh bục xử tử và cố gắng làm cho giàn
trống im lặng để ông có thể nói với công chúng. Chúng ta không biết việc ông làm
có hữu hiệu không, nhưng có người nhớ lại điều ông nói:
“ Ta chết đi hoàn toàn vô tội đối với cái gọi là tội ác mà ta bị tố cáo.
Ta tha thứ cho những kẻ đã gây ra sự bất hạnh của ta. Quả thực, ta hy vọng rằng
những giọt máu ta nhỏ xuống sẽ đóng góp vào hạnh phúc của đất nước.”
Nhóm Girondins còn lúng túng hơn
nữa vì tình trạng suy nhược của một cuộc chiến tranh mà, là những người hậu thuẫn
của Brissot, họ đã hăng hái thúc đẩy vào 1792.
Đất nước đứng dậy “vũ trang” đã xâm chiếm những vùng thấp, vùng
Rhineland và Savoy (mà họ đã đồng ý trở thành một tỉnh bang của Pháp) vào dịp
Giáng Sinh, nhưng việc hành quyết vua Louis vào 21 tháng Giêng 1793 đã làm lan
rộng chiến tranh tới cả việc Anh Quốc và Tây Ban Nha tham chiến và đã làm thay
đổi cục diện chiến tranh. Một loạt các thất bại ở Tây Nam, Đông Nam và Đông Bắc
đã gây nên việc các cánh quân nước ngoài vượt biên giới tràn qua Pháp trong tháng
Ba. Những nghi ngại rằng nhóm Girondins không còn khả năng lãnh đạo nền Cộng Hoà
qua cuộc khủng hoảng quân sự dường như được chứng tỏ qua sự đào ngũ của tướng
Dumouriez vào ngày 5 tháng Tư, một kẻ ủng hộ nhóm Girondins lãnh đạo đã từng là
anh hùng trong những trận chiến thắng vĩ đại đầu tiên tại Valmy và Jemappes.
Tình trạng quân sự suy yếu dẫn đến
việc kêu gọi những biện pháp hết sức nguy hiểm. Đặc biệt tại các khu vực biên
giới, lời kêu gọi tình nguyện của Hội Đồng được đi kèm theo bởi sự tổ chức địa phương thành lập các tiểu đoàn
quân tình nguyện do chính các cộng đồng địa phương trang bị. Những hồ sơ về sự
tạo thành các tiểu đoàn này là một minh chứng hùng hồn cho sự thay đổi cách mạng
đã làm về văn hoá chính trị. Trong khi các nguyên tắc về chủ quyền phổ thông chưa
bao giờ được áp dụng trong quân đội chuyên nghiệp, các đơn vị địa phương tình
nguyện đã tự chọn sĩ quan chỉ huy của riêng họ thuộc đủ mọi trình độ tại các buổi
lễ tràn đầy lòng yêu nước. Nhiệt tâm cách
mạng của họ không phải lúc nào cũng thay thế cho việc huấn luyện. Tại miền Nam
của tỉnh bang Auden quân sự, nơi mà người ta có thể nghe và chứng kiến được cuộc
giao tranh với quân Tây Ban Nha quanh vùng Perpignan, viên cựu lãnh chúa chuyển
sang phe “ái quốc” Antoine Viguier không có ấn tượng với quân tình nguyện lắm:
“Các sĩ quan chỉ huy do các đại đội họ lựa chọn chẳng biết gì về các vấn đề quân sự nhiều hơn cái họ biết về kinh Koran. Quân lính thì không
có kinh nghiệm. Họ suốt ngày ra bờ sông
bắt cóc nhái. Sự nhiệt thành của quân lính tình nguyện vào 1792 – 1793 không
bao lâu sau đã được thử nghiệm một cách chua cay.
No comments:
Post a Comment