Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799
by Peter McPhee
by Peter McPhee
Chương 6: Cách Mạng trong vị thế thăng bằng: 1793
“Lũ con lạc loài vô chính phủ đang
tiến tới,
Và ngày ô nhục đang đến với chúng
ta…
Nhân dân lại mù loà trong cơn phẫn nộ,
Họ giơ cao những lưỡi dao đẫm máu
Ngay trong cái thời kinh khiếp và
đầy tội ác
Để phục vụ cho những mưu đồ bất
công đốn mạt
Chẳng thèm đếm xỉa đến tội lỗi ô
uế
Hay đếm thử số xác nạn nhân những con mồi của họ.”
Đối với Vergniaud, quyền bình đẳng
cho con người như một món vật xã hội gồm có duy nhất trong sự bình đẳng của các quyền hợp pháp của ông. Và Brissot đã đưa
ra một “lời kêu gọi tới tất cả các nhà
Cách Mạng Pháp” vào tháng Mười để cảnh báo chống lại “loại rắn độc vô chính
phủ”, khiển trách nhóm Jacobins như một bọn phá rối muốn cào bằng mọi thứ: tài
sản, thú vui, giá cả nhu yếu phẩm, những dịch vụ đủ loại giúp cho xã hội.
Trong khi Brissot phóng đại quá đáng
về những động cơ thúc đẩy việc ‘cào bằng’ của phe nhóm Jacobins, họ chắc chắn
uyển chuyển hơn trong việc sẵn lòng kiểm soát tạm thời về kinh tế, đặc biệt
trong giá cả thực phẩm. Vào cuối năm 1792, Robspierre đã đáp lại việc nổi loạn
về thực phẩm tại tỉnh bang Eure-et-Loire bằng việc kiên quyết rằng: ‘Quyền
căn bản nhất trong mọi quyền hạn là quyền được sống còn. Bởi thế luật pháp nền
tảng nhất của xã hội là điều luật bảo đảm mọi phương tiện để tồn tại cho mỗi
con người; mọi luật lệ khác phụ thuộc vào điều luật này.’ Tương tự, người bạn
đồng minh trẻ của ông, Louis-Antoine de Saint-Just, người được bầu chọn vào đại
biểu Hội Nghị ở tuổi 25 ở vùng tiền tuyến phía Bắc tỉnh bang de Asine cũng khẳng
định rằng: ‘chỉ trong một giây phút đơn lẻ,
bạn có thể cho người dân Pháp một quê hương thực sự bằng việc ngăn chặn những tổn
thất của lạm phát, bảo đảm sự cung cấp thực phẩm và liên kết mật thiết vấn đề
an sinh vào với tự do của họ.’
Qua đầu năm 1793, biện luận của
phe Girondins ngày càng trở nên rỗng tuếch trong bối cảnh khủng hoảng quân sự,
và hầu hết các đại biểu không phe phái đã ngả theo những đề xuất khẩn cấp của
nhóm Jacobins. Đặc biệt, Hội Nghị đã đáp trả cuộc khủng hoảng với lệnh tổng động viên 300,000 tân binh trong tháng
Ba. Lệnh trưng binh này chỉ thực hiện dễ dàng tại miền Đông Nam và miền Nam, 2
vùng tiền tuyến, và chung quanh Paris. Ở phía Tây, nó gây nên một cuộc vũ trang
nổi loạn lớn lao và cuộc nội chiến. Nổi lên ngay tại thời điểm tối nguy hiểm
cho nền Cộng Hoà non trẻ và đã gây ra tổn thất lớn lao về nhân mạng, sự hồi
sinh đã để lại những vết sẹo lớn trên thân thể của nền xã hội
và chính trị Pháp. Nó vẫn còn tiếp tục chia rẽ các sử gia: đối với một số người, sự đàn áp cuộc nổi loạn
rõ ràng mang tội ác ‘diệt chủng’. Với những người khác, nó thật đáng tiếc nhưng
là một đáp trả cần thiết cho một hành động ‘đâm sau lưng’ tại cái giây phút khủng
hoảng lớn lao nhất của cuộc Cách Mạng.
Các nguồn gốc của sự nổi loạn được
tìm thấy trong các đặc tính riêng biệt của mỗi vùng miền và sự va chạm khác biệt
mà Cách Mạng gặp phải từ 1789. Những tỉnh phía Nam của khu vực Loire nơi bạo động bùng phát rải rác ở trong vùng các
nông trại xa xôi phân chia bởi các hàng
rào cao, sự liên lạc với thế giới bên ngoài hạn chế và là vùng hỗn hợp giữa các
nông trại trồng thực phẩm và nuôi gia súc lấy sữa thịt, với sự sản xuất vải sợi
có cơ xưởng tại những trung tâm làng mạc nhỏ.
Số lượng sở hữu tài sản lớn lao của các quý tộc và chức sắc tôn giáo được
các chủ nông trại tương đối khá giả thuê mướn với những hợp đồng được bảo đảm qua
tầng lớp tư sản trung lưu. Những yêu sách quá đáng của các lãnh chúa và nhà nước
trước 1789 tương đối ít ỏi. Một tầng lớp giáo sĩ đông đảo, tích cực và do địa
phương tuyển mộ đóng một vai trò xã hội cốt cán nhờ có sự phồn thịnh để làm được
việc như vậy; như trong các giáo phận khác tại miền Tây, hầu hết các linh mục
trực tiếp thu phần thuế thập phân hơn là do giáo phận phân bổ thành phần xuống
để phù hợp theo hoàn cảnh. Đối với đa số người dân sống tại các nông trại rải rác và các thôn xóm,
ngày lễ Chúa Nhật là cơ hội khi đi đến trung tâm làng xã, cảm giác hoà nhập vào
cộng đồng trong cái danh hiệu giáo xứ, đưa ra những quyết định và nghe tin tức
do các linh mục chuyển tải.
Sự trình tấu những bất mãn của từng
khu vực biểu lộ những niềm hy vọng của người dân vùng quê, kêu gọi chấm dứt tình
trạng đặc quyền và chia xẻ quyền lực chính trị.
Chỉ có việc thiếu phê phán giáo hội là điểm bất thường của các bản tấu
trình. Cách Mạng đã chẳng mang lại cho các nông dân vùng Vendée những lợi thế rõ ràng. Phần thuế nhà nước nặng nề hơn do các tay tư
sản địa phương thu góp một cách vô lý, và cũng là những người độc quyền hoá các
văn phòng và hội đồng thị xã mới, đồng thời mua hết các đất đai của Giáo Hội vào
năm 1791. Tại khu quận Cholet, đám quý tộc
đã mua 23.5% số đất như vậy, dân tư sản mua 56.3%, còn nông dân chỉ có
9.3%. Sự sụp đổ nhu cầu vải sợi, tiếp
theo một hiệp ước mậu dịch tự do với Anh Quốc năm 1786 và những khó khăn kinh tế
trong thời kỳ Cách Mạng đã cô lập những công nhân vải sợi. Tương tự, qua dự đoán
cho rằng các hợp đồng thuê mướn lâu dài riêng biệt của miền Tây chỉ là một
trong nhiều hình thức thoả thuận thuê mướn, chính quyền Cách Mạng đã làm cho tầng
lớp trung lưu miền quê trở nên dễ đổ vỡ hơn là công nhận họ như những chủ đất bán
chính thức.
Các linh mục tại miền Tây thù ghét
việc xóa bỏ thuế thập phân và sự áp đặt một quan niệm thành thị và dân sự về chức
vụ linh mục. Họ được hỗ trợ bởi các cộng đồng của họ bất mãn với kết quả của Cách
Mạng và phẫn nộ vì sự áp đặt quá nhiệt tình việc cải tổ giáo hội từ những công chức nhà nước. Thí dụ tại Angers, ban quản
trị tư sản mới đã từ lâu có đặc tính thù ghét sự giàu có và các giá trị của hàng
giáo sĩ. Tại khu quận La Roche-sur-Yon cũng thế, ban quản trị hành chánh đã không
do dự đóng cửa 19 nhà thờ giáo xứ trong tổng số 52, được cho là số dư thừa theo
những điều khoản về “Luật Hiến Pháp Dân Sự về Giáo Sĩ.” Trường hợp hiếm hoi là một
nhân viên tại Vitré thuộc tỉnh bang Deux-Sèvres, người mặc dù tin rằng cái chủ nghĩa cuồng tín đã không may
cắm rễ sâu tại khu vực này đã khuyến cáo rằng: “Chúng ta không được trực tiếp đối
đầu nó vì e rằng sẽ gây quá nhiều máu đổ. Chúng ta hãy giáo dục, thuyết phục và
rồi chúng ta sẽ đưa họ quay đầu lại.”
Cộng đồng miền quê xa xôi đáp ứng
lại với những bất mãn tồn trữ trong khoảng 1790-1792 qua sự xỉ nhục các giáo sĩ
chịu ký hiến pháp đã được các công dân ‘tích cực’ bầu chọn, qua sự tẩy chay các
cuộc bầu cử quốc gia và địa phương và qua những trường hợp thù ghét lập đi lập
lại đối với các viên chức chính quyền địa phương. Hơn bất cứ thứ gì khác, luật
động viên đã làm họ chú tâm hơn vào sự hận thù, vì những viên chức tư sản thi hành
luật đó lại được miễn trừ khỏi danh sách bốc thăm trúng tuyển. Trong khi những
người Cộng Hoà đa số là giới tư sản, thợ thủ công và chủ tiệm, đám nổi loạn thì lại đại diện thành phần
tiêu biểu của xã hội vùng quê xa xôi. Phụ nữ đóng một vai trò cốt yếu trong cuộc
nổi loạn như người trung gian giữa hàng giáo sĩ và cộng đồng thế tục và trong việc
giữ gìn tài sản trong cuộc chiến đấu. Đám Cộng Hoà lên án những kẻ nổi loạn là
lũ nông dân ngu dốt và mê tín dị đoan, chịu sự chi phối của bọn linh mục cuồng
tín. Ngược lại, các phương châm của quân nổi dậy diễn tả sự ủng hộ cho các
“linh mục tốt lành” như sự thiết yếu cho một lối sống bị đe doạ, và cho sự thù
ghét đối với bọn tư sản:
“Bọn bay sẽ bị diệt vong trên phố
Hỡi bọn tư sản đáng nguyền rủa
Nằm giơ chân lên không
Như một đám sâu bọ…”
Theo đó, các mục tiêu đầu tiên là
các viên chức địa phương, những người bị tấn công và nhục mạ. Tại những trung tâm
thị xã nhỏ như Machecoul nơi có tới 500 người theo Cộng Hoà bị tra tấn và sát hại
trong tháng Ba.
Vùng Vendée khởi đầu cuộc phản cách
mạng không đến nỗi đến mức chống phá: Cuộc Cách Mạng từng được chào đón ở bước
đầu đã không mang lại lợi lộc gì ngoài rắc rối.
Việc tham gia sau đó của giới quý tộc và giáo sĩ cố chấp đã
mang lại cho họ một màu sắc phản cách mạng, nhưng đám nông dân đã không chịu
thiết lập một đội quân để đi đến Paris hay chịu chi trả trở lại các lệ phí hay
thuế thập phân. Vùng lãnh thổ này thích
hợp cho các cuộc đột kích và rút lui theo kiểu du kích và làm trầm trọng thêm cái
vòng lẩn quẩn của sự chém giết và trả thù của cả 2 phía, đã thuyết phục được sự phản bội của phía đối nghịch. Đối với
những người theo Cộng Hoà, đám nổi loạn thuộc loại mê tín và hung bạo, được các
quý tộc và linh mục ác độc điều khiển vì sự ngu dốt của họ. Đối với dân nổi loạn,
sự kéo dài trả thù mà một số nhà viết sử tiếp tục diển tả không thực sự chính xác
như cuộc diệt chủng, đã củng cố cái hình ảnh đẫm máu của Paris mà nó sẽ được làm
theo rộng rãi tại nhiều khu vực xa xôi trong thế kỷ kế tiếp.
Cuối cùng, cuộc nội chiến có lẽ đã
cướp đi tới 200,000 sinh mạng mỗi bên, cũng không thua kém các cuộc chiến chống
quân ngoại 1793-1794. Sự cay đắng của cuộc
chiến đấu vào cái thời điểm của một cuộc khủng hoảng quân sự toàn quốc đã khuyến
khích cho một sự trấn áp tràn lan. Khi viên tướng Westermann báo cáo lại cho Hội
Đồng Nghị viện vào tháng Mười Hai 1793 rằng vùng Vendée không còn nữa, ông thú
nhận rằng: “ Chúng ta chẳng bắt được một
tù binh nào: đáng lẽ điều cần thiết là
cho họ mẩu bánh tự do và lòng thương xót chứ không phải là cách mạng.” Giữa
tháng 12 và tháng Năm 1794, sau khi cuộc
nổi dậy đã bị đè bẹp, các đội quân khủng khiếp của viên tướng Turreau đã thực
hiện một cuộc trả thù đốt phá thành bình địa lên 773 xã ấp dám tuyên bố đứng
ngoài vòng pháp luật. Ông ta đã báo cáo lên bộ trưởng chiến tranh rằng tất cả bọn
nổi loạn và tình nghi nổi loạn ở đủ mọi lứa tuổi cả nam lẫn nữ đều bi đâm chết;
mọi làng mạc, nông trại, rừng cây, đất hoang, nói chung bất cứ gì có thể cháy đều
bị tiêu hủy hết. Có một sự ước lượng rằng có đến 117,000 người (15% dân số)
trong những cộng đồng này đã chết.
Tại La Rochelle ở cạnh phía Nam vùng
Vendée, cuộc Cách Mạng cũng mang lại sự
bất trắc và khó khăn kinh tế. Tuy nhiên, tại đây sự phản đối được biểu lộ theo
một cách khác. Dân La Rochelle đã sống lâu đời với đặc quyền của họ trong liên
hệ buôn bán với St-Domingue, mối thương mại với vùng Bắc Âu và bờ biển, việc
mua bán nô lệ Phi Châu và sự xuất khẩu muối, rượu vang và lúa mì. Cuộc chiến trở thành thảm hoạ cho ngành buôn bán nô lệ: từ 22 phiên chợ nô lệ trong năm
1786, đến năm 1792 chỉ còn lại 2 vụ. Các
nhà máy đường đóng cửa vì thương mại thuộc địa sụp đổ. Vào tháng Sáu 1792, 5
người trong số các thương gia giàu có nhất vỡ nợ kể cả viên thị trưởng Daniel
Garesché.
Mặc cho những thăng trầm đó, La
Rochelle vẫn kiên trì ủng hộ Cách Mạng, đặc biệt giới ưu tú Tin Lành. Trong ngày
16 tháng Giêng 1793, 7 đứa con trai và 8 con gái khoảng 13 tuổi đã xuất hiện
trước hội đồng thị trấn La Rochelle để trao tặng trang phục cho các binh lính mà
bọn chúng đã dốc hết tiền dành dụm để mua tặng. Một đứa trong họ, Nanine Weis đến
từ một gia đình Tin Lành giàu có tại thị trấn đã thay mặt họ phát biểu:
“Kính thưa các quan tòa, quý vị thấy trước mắt quý vị một xã hội nhỏ bé
của những người yêu nước trẻ, thường đến với nhau qua nhu cầu tìm niềm vui
trong độ tuổi của chúng cháu, với sự tốt đẹp của tình thân hữu đã liên kết cha
mẹ chúng cháu. Tình yêu quê hương đã lớn
lên trong trái tim non nớt của chúng cháu và chúng cháu lo lắng khi biết rằng
những tình nguyện quân dũng cảm trong tỉnh của chúng ta đã lên đường bảo vệ đất
nước mà thiếu thốn những dụng cụ thiết yếu.
Chúng cháu đã tự quyên góp trong số chúng cháu, dùng những món tiền tiết
kiệm khiêm tốn của chúng cháu. Chúng cháu chẳng có thể biếu tặng nhiều hơn. Nỗ
lực của chúng cháu cho tới nay chỉ có thể mua được 26 đôi giày và 29 đôi vớ và
mong quý vị gửi chúng đến những đồng hương dũng cảm của chúng ta tại mặt trận. Chúng
cháu sẽ không ngừng dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa cho sự thành công của đoàn
quân chúng ta chống lại kẻ thù của nền Cộng Hoà của chúng ta.”
Hai tuần sau đó, theo sau sự hành quyết vua Louis XVI, Pháp và
Anh Quốc xảy ra chiến tranh. Việc buôn bán
bờ biển, lúc nào cũng quan trọng hơn việc buôn bán nộ lệ và trao đổi mậu dịch
thuộc đia, bây giờ cũng suy sụp. Sự phong tỏa đường biển của Anh gây nên sự suy
sụp của các gia đình Tin Lành mà sự thịnh
vượng của họ chủ yếu đến từ việc buôn bán hải ngoại, đặc biệt trong dịch vụ nô
lệ và các sản phẩm thuộc địa. Trong số họ có gia đình Weis đã rời về Paris
với 3 phần tư số tài sản bị mất mát.
Khi Rochelais giải thích những sự
bất hạnh của họ, các linh mục không chịu tuyên thệ đã trở thành những con dê tế
thần rõ ràng nhất, hệt như tại Lille vào tháng Tư 1792 và Paris vào tháng Chín.
Họ không chỉ nhân cách hoá những khó khăn mà Cách Mạng phải đối
diện, nhưng ít ra đối với một số người trong thành phố, điều đó dường như họ cũng
bị trách cứ cho những bất mãn về giới tính của họ: đàn ông tụ tập thành một đám
đông 400 người đã từng đập phá đồ đạc các tu viện vào tháng Năm 1792 với lý do là
đi tìm kiếm đám người không chịu tuyên
thệ, ngươì ta đã nghe họ hô lớn: “Chúng tôi
thà đập phá bàn ghế, cửa sổ hơn đánh đập
chân tay vợ con. Chúng tôi đã không có gì vui thú trong suốt 4 tháng qua. Có
con quỷ ở trong nhà chúng tôi mà.” Điều này biểu lộ rằng các giáo sĩ không
tuyên thệ đã khuyên nhủ đàn bà phụ nữ từ chối chuyện chăn gối đối với những ông
chồng “yêu nước” của họ. Dĩ nhiên, vào tháng Năm 1792 khi nước Pháp bước vào
chiến tranh, cánh giáo sĩ ương ngạnh này bỏ
chạy trốn.
Vào thời điểm cuộc nổi loạn dấy lên
ở Vendée, thị trấn đang ở trong tình trạng đói khát, tuyệt vọng và phẫn nộ. Dân
Vendée nổi loạn bị ghét bỏ như một biểu tượng nhân cách hoá của chế độ Công Giáo
Pháp và Âu Châu cổ hủ mà vì sự chối bỏ Cách
Mạng, nó đã mang đến đau khổ tột cùng và phá nát mọi niềm hy vọng. Một đội quân
tình nguyện tới 2000 người được gửi đến Vendée vào ngày 19 tháng Ba đã nhanh chóng
bị đánh bại. Trên đường quay trở về La Rochelle, đám quân tàn dư bị thương tích
và nhục nhã đã tìm thấy một chỗ để trút sự giận dữ. Vào sáng ngày 21, 4 linh mục
cố chấp (không tuyên thệ) đã được di rời khỏi nhà tù thành phố đến một nhà tù
ngoài khơi để bảo đảm sự an toàn cho họ. Theo lời nói của thẩm phán hòa bình:
“Người dân tụ họp thành đám đông đã bị phản đối vì việc đưa họ xuống tàu
ở gần Tour de la Chaine. Sự sôi sục càng trở nên mạnh mẽ hơn khi thình lình có
một số đông các công dân của thị trấn này đã bị thương tích trong cuộc chinh phạt
Vendée thất bại hôm 19 trong tháng quay về. Mấy ông linh mục bị bao vây và đâm
chém đến chết. Sau đó viên quan toà tường thuật: “Người ta chiếm giữ xác họ và
sau khi đã chặt đầu, họ mang đi diễu hành qua nhiều đường phố.” Đây chỉ là một sự tóm tắt nhẹ nhàng của một
hành vi chặt chém lạ thường áp dụng lên thân
xác con người. Sự việc đã lập lại
vào buổi chiều kế tiếp khi có 2 linh mục khác thật bất hạnh đã từ Ile-de-Ré để đến
La Rochelle đi ngang qua. Thân thể họ bị xé tan thành nhiều mảnh với bộ phận
sinh dục của họ bị treo lên đầu một cây gậy.”
Lại còn một cách đáp ứng khác đối
với cuộc khủng hoảng mùa Xuân 1793 đã xảy ra
trong cái thị trấn nhỏ Pyrenée của vùng St-Laurent-de –Cerdans ở một mức
độ cực đoan nhất so với Paris. Tại đây, cuộc Cách Mạng lúc đầu được chào đón bởi
một đa số các người nghèo khổ trong sự hứa hẹn chấm dứt tình trạng đặc quyền.
sau đó đã nhanh chóng biến thành cay đắng cho người dân Laurentins với những khó
khăn chồng chất về việc buôn bán hợp pháp hay bất hợp pháp trong suốt vùng
Pyrenees và đặc biệt với những cải tổ tôn giáo được nhận thức như một sự nổi giận
thế tục và thành phố chống lại hệ thống Công Giáo chính thống. Vào ngày 17 tháng
Tư 1793, người dân Lauretins đã chào đón các đoàn quân hoàng gia Tây Ban Nha đi
vào làng xóm của họ và các vệ binh quốc gia địa phương đã bắn vào đám quân tình
nguyện Pháp, họ đành rút lui. Quân Tây Ban Nha đã được chào đón qua một bài ca
tiếng Catalan cầu xin họ có tinh thần trọng pháp luật.
Hàng trăm người đã sánh vai chiến
đấu cùng đoàn quân Tây Ban Nha trong một năm trời cho tới khi cánh quân
Jacobins chiếm lại một phần vùng đất tiến gần tới Vallespir vào tháng Năm 1794.
Một biến động còn nghiêm trọng hơn
đánh vào chính thể Cộng Hoà là cuộc nổi dậy chống lại nhóm Jacobins vào tháng Tư
tại Corsia. Nó quan trọng đối với Cách Mạng vì sự nổi tiếng của Paoli và truyền
thống cộng hoà lâu đời của hòn đảo. Là
viên thống đốc trên đảo, Paoli đã có một hiến chương dân chủ tự do được viên tổng
lãnh sự Di Corti thừa nhận vào năm 1755. Sau đó vào năm 1768, quân đội Pháp của
vua Louis XV đã xâm chiếm đảo và xóa bỏ quyền tự trị. Không ngạc nhiên lắm, từ 1789,
Paoli đã được Hội Đồng Quốc Gia chào mừng như vị anh hùng. Tuy nhiên, qua sự lật
đổ chế độ quân chủ và sự thất bại của hệ thống Liên Bang vào giữa năm 1793,
Paoli ngày càng quan tâm đến những cưỡng ép tập trung của Quốc Hội Nghị Viện. Xã
hội Corsi phân rẽ ra giữa những người ủng hộ Paoli và những người ủng hộ dòng họ
Bonaparte. Dòng họ này sau đó đã buộc phải bỏ trốn vào đất liền và bị hội đồng
Corsican cáo buộc là bọn phản quốc và là kẻ thù của tổ quốc, bị lên án muôn đời
nguyền rủa và nhục nhã.
Cuộc nội chiến tại Vendée, những
thất bại quân sự ở tiền tuyến và sự lý giải ngày càng thêm nguy hiểm của phe cánh
Girondins đã đẩy những người không phe phái đến việc ủng hộ các đề xuất của phe
Jacobins cho những biện pháp khẩn cấp thời chiến. Giữa tháng Ba và tháng Năm
1793, Quốc Hội Nghị Viện đặt các quyền hành pháp vào tay một Uỷ Ban Công An và
quyền hành giữ trật tự vào tay Ban An Ninh Thường Trực. Quốc Hội Nghị Viện cũng
hành động để giám sát quân đội qua các ‘đại biểu đặc nhiệm.’ Họ thông qua những
nghị quyết tuyên bố ‘khai tử về mặt dân
sự’các di dân, cung cấp cứu trợ công cộng và đặt sự kiểm soát
giá cả ngũ cốc và bánh mì.
Phe cánh Girondins bị chạm nọc vì sự mất quyền bính trong Nghị Viện và sự tấn công
ngày càng tăng của đám ‘Sans-Culottes’. Họ phản công bằng việc tìm cách buộc tội
‘người bạn của dân’ Marat, bằng cách đe
doạ di chuyển thủ đô về Bourges và bằng cách tấn công chính quyền thành phố
Paris hay còn gọi là Công Xã Paris. Isnard cảnh cáo đám Sans-Culottes: “Nhân danh nước Pháp, ta nói cho các người biết
rằng nếu những vụ nổi dậy này cứ tái diễn mãi như vậy thì chúng sẽ gây hại cho
Quốc Hội mà đất nước đã bầu chọn. Rồi Paris sẽ bị huỷ diệt và người ta sẽ phải
đi lùng sục trên bờ sông Seine trong vô
vọng để đi tìm cho ra dấu vết của
Paris.” Trong cái bối cảnh khủng hoảng quân sự và lạm phát phi mã, những đe
doạ như vậy nghe lạ lùng giống như tuyên
ngôn của Công tước Brunswitch vào tháng Bẩy 1792 và đã làm dân lao động Paris
giận dữ. Phụ nữ buôn bán ở chợ bắt đầu kêu gọi một cuộc thanh trừng với một sự
cưỡng bức cho đám người phi cách mạng như vậy. Vào giữa tháng Tư, 35 phân bộ đã
đồng ý về một danh sách các đại biểu Girondins bị khai trừ khỏi Quốc Hội Nghị
Viện và thiết lập một Uỷ Ban Cách Mạng Trung Ương. Công Xã Paris đã ra lệnh thành
lập một đội dân quân Sans-Culottes 20,000 có trả lương trú đóng chung quanh Nghị
Viện vào cuối tháng Năm và ép buộc các đại biểu còn lưỡng lự chấp nhận những
mong muốn của họ. 29 đại biểu
Girondins bị bắt giữ.
Khởi đầu Quốc Hội Nghị Viện đã do dự: Liệu việc
thanh trừng của Nghị Viện không phải là một sự khinh mạn không thể tha thứ về
nguyên tắc chủ quyền đất nước chứ? Tuy nhiên, sau đó họ đã thực hiện để giải
quyết sự khủng hoảng của đất nước trong cơn nguy hiểm của sự sụp đổ nội địa và
thất bại bên ngoài. Vào mùa hè 1793, Cách Mạng đối diện cuộc khủng hoảng lớn
lao nhất đồng loạt về cả quân sự, xã hội và chính trị. Quân địch đã tiến vào
trong đất Pháp tại Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam; và trong nội bộ thì cuộc nổi dậy
lớn lao tại Vendée đã thu hút phần lớn quân đội Cộng Hoà. Những đe doạ này còn
trầm trọng thêm vì sự trả thù của 60 ban quản trị hành chánh về việc thanh trừng
nhóm Girondins. Những thành phố vùng miền lớn nhất đã rơi vào tay một liên minh
giữa những người Cộng Hoà bảo thủ và những người bảo hoàng. Vào ngày 29 tháng Tám,
kho vũ khí hải quân chủ chốt Toulon tại
vùng Điạ Trung Hải đã bị các sĩ quan tại đây giao lại cho Hải Quân Anh Quốc đang phong tỏa bờ biển.
Những cuộc biến loạn mệnh danh “liên bang toàn quốc” này chỉ được liên kết
ngẫu nhiên cùng thời điểm. Tuy nhiên, tất cả chúng đều phát xuất từ những truyền
thống vùng miền mạnh mẽ. Cuộc nổi dậy “tổng liên bang” đặc biệt dữ dội ở những thành phố lớn ở phía Nam
(Bordeaux, Lyons, Toulouse và Marseilles) và tại Normandy ((trung tâm vùng
Caen). Trên hết, cối lõi của cuộc nổi dậy
tổng liên bang này là sự giận dữ của giới tư sản thượng lưu, đặc biệt tại các
thị trấn thương mại, theo chiều hướng cấp tiến Cách Mạng đã đề ra. Sự thanh trừng
các đại biểu đã được bầu chọn chỉ là giọt nước làm tràn ly. Những mục tiêu trước mắt của cuộc dấy loạn là
người trong phe Jacobins địa phương và các dân quân, nó phản ánh cái tính chất
đặt căn bản trên giai cấp của sự chia rẽ địa phương. Tại Toulon, ủy ban nắm quyền
hành gồm có 16 thương gia, 8 luật sư, 6 trang chủ thuê đất, 11 sĩ quan và kỹ sư
cơ khí hải quân, 3 công chức, 3 linh mục và 3 thợ thủ công. Họ xác định rằng: “Chúng tôi thưởng thức thành quả của chúng tôi,
tài sản, hoa quả trái cây và sản phẩm từ công lao khó nhọc và nền kỹ nghệ của chúng tôi trong sự hoà bình.
Vậy mà chúng tôi thấy bọn họ không ngớt đưa ra những lời đe dọa từ những kẻ chẳng
có gì cả.” Tại Lyon cũng thế, cuộc
tranh đấu giữa Jacobins và Girondins được nối kết vào chính trị và quân sự của
những người thợ dệt lụa, được biểu lộ qua các câu lạc bộ Jacobins trong những năm
tháng kể từ 1789. Tuy nhiên, không có nơi nào mà phe cánh “Tổng Liên Bang” tập hợp được một lực lượng quân sự đủ hùng mạnh
để gây nên một mối đe dọa nghiêm trọng cho quân đội nhà nước.
Sự đe doạ tiến vào tới trung tâm
của Nghị Viện vào ngày 13 tháng Bẩy khi Charlotte Corday ám sát Marat. Corday,
người đến từ vùng đất vững chắc của phe Tổng Liên Bang tại Caen, là một người ủng
hộ Girondins và coi Marat là một cá nhân
biểu hiện cho những cặn bã của cuộc Cách Mạng. Bà ta bị ra tòa ngày 17 và bị hành
quyết cùng ngày. Cùng với Le Peletier, người bị một tay bảo hoàng giết trong đêm
Nghị Viện bỏ phiếu kết án tử vua Louis XVI, và Joseph Chalier, người lãnh đạo
Jacobins tại Lyons bị những tay “Tổng
Liên Bang” giết ngày 17 tháng Bẩy, cùng với Marat tạo thành một bộ ba liệt
sĩ Cách Mạng. Trong lãnh vực kinh tế, đặc
biệt số phận của những người hưởng lương tiếp tục suy thoái: Vào tháng Tám, giá
trị mua hàng của đồng Assignat đã giảm đi
22% so với giá trị được ấn định, và giảm 36% so với tháng Sáu. Đến lúc này Cách
Mạng, thực ra là chính nước Pháp, có nguy cơ đứng trên bờ vực thắm.
Đối tượng đầu tiên của Ủy Ban Công
An Jacobins được Hội Đồng Nghị Viện bầu chọn trong ngày 27 tháng Bẩy là để thực
hiện các luật lệ và sự kiểm soát cần thiết cho việc đánh một màn khủng bố vào đầu
não của những tay phản Cách Mạng. Nghị Viện ngầm đồng ý với các biện pháp hà khắc cần thiết, như các
ban giám sát, giam giữ phòng ngừa và kiểm soát
tự do dân sự để bảo đảm thể chế Cộng Hoà tới một vị trí mà Hiến Pháp Tự
Do và Dân Chủ tháng Sáu 1793 có thể được thực thi. Hiến Pháp mà phần lớn là
tác phẩm của Robespierre chú ý đáng kể cho sự bảo đảm các quyền xã hội và sự kiểm
soát của công chúng đối với một hội đồng được bầu chọn qua quyền bỏ phiếu phổ
thông của các nam công dân:
Điều 21: Sự trợ giúp công cộng là
một món nợ thiêng liêng. Xã hội mắc nợ sự sống còn đối với các công dân kém may
mắn, hoặc bằng việc tìm kiếm công ăn việc làm cho họ hay bằng cách cung cấp phương
tiện để tồn tại cho những ai không thể lao động.
Điều 22: Tất cả mọi người (thuộc
nam giới) cần được hướng dẫn. Xã hội phải đưa tiến trình lý trí công cộng đi xa
hơn với tất cả quyền hạn của mình và làm cho sự hướng dẫn có hiệu lực đến mọi công
dân.
Điều 35: Khi chính quyền vi phạm các quyền hạn của nhân
dân, sự nổi dậy sẽ là một trong những quyền thiêng liêng nhất và nhiệm vụ cần
thiết nhất cho nhân dân và cho mỗi người dân.
Kết quả của cuộc trưng cầu ý dân
về việc có chấp nhận hay không với chừng 1.8 triệu phiếu thuận và chỉ 11,600
phiếu chống được loan báo trong ngày lễ “Thống Nhất” 10 tháng Tám, kỷ niệm đệ
nhất chu niên ngày lật đổ chế độ quân chủ. Con số cuối cùng cho phiếu thuận có lẽ sát hơn với 2 triệu trên tổng số khoảng
6 triệu nam công dân có quyền bỏ phiếu. Tỷ lệ tham dự đầu phiếu thay đổi tuỳ vùng
từ ít hơn 10% tại phần lớn vùng Brittany tới 40 – 50% dọc theo bờ sông Rhine và
nhiều phần vùng Massif Central. Tại vài khu vực, việc đi bầu trở thành một lễ hội:
Tại St-Nicolas-de-la-Grave thuộc tỉnh bang Haute-Garonne, vài người có mặt đã bị
giao động qua một bài diễn thuyết mà nó chuyên chở được lòng nhiệt thành tuyệt
vời nhất. Đôi mắt họ long lanh ngấn lệ và ôm chầm lấy nhau chia xẻ những nụ hôn
thân thiết tình anh em. Tương tự tại Lamballe thuộc Vôtes-du-Nord, phụ nữ tụ họp
thành đoàn để biểu lộ sự đồng ý với Hiến Pháp. Ở nơi khác, 343 phụ nữ đi bầu tại
Laon và tại Pontoise có 175 phụ nữ và 163 trẻ em. Tuy nhiên, cái mức độ tự do cá
nhân được bảo đảm trong Hiến Pháp như vậy lại đã bị treo cho tới khi có hoà bình
vì e ngại đám phản cách mạng lạm dụng
sự tự do.
Vào giữa năm 1793, chính quyền Cộng
Hoà đã gây chiến với hầu hết Âu Châu và quân ngoại quốc đã có mặt trên đất Pháp
tại Tây Nam, Đông Nam và Đông Bắc. Sự thách thức về quân sự đưa đến một cuộc tổng
động viên lạ thường về tài nguyên quốc gia và về sự đàn áp các đối thủ. Điều thiết yếu cho sự động viên này là sự thiết
lập một liên minh thành thị & thôn quê của chính quyền Jacobins qua việc hỗn
hợp hù doạ, cưỡng bức và các chính sách nhắm vào cả những bất mãn của công chúng và đặt toàn thể đất nước vào tình
trạng chiến tranh.
Nghị Viện đã phải vượt qua những
bất thường của cuộc chiến đấu tại rất nhiều mặt trận vào cái thời điểm chia rẽ
nội bộ và cuộc nội chiến và cả một số điều thất vọng: có lẽ có đến 35,000 quân
lính (khoảng 6% trên tổng số) đã đào ngũ trong nửa năm đầu 1973 và nhiều người
khác đã phản ứng lại vì sự thiếu hụt tiếp liệu lương thực vì nạn trộm cắp các sản phẩm địa phương. Trong mùa đông 1793, một người lính tại miền Đông
Nam đã viết rằng “tiểu đoàn của chúng tôi
đang ở trong tình trạng thiếu thốn nhu yếu phẩm vô cùng, giống hệt như những
người vô sản (Sans-Culottes) thực sự. Từ người đầu đến người cuối, chúng tôi không
hề có giày dép, lại bị ghẻ lở và bọ chét gặm nhấm.” Một tiểu đoàn cạnh đó báo
cáo rằng họ phải đào rễ cây ăn để sống còn.
Sự đào ngũ đã giảm đến mức tối
thiểu trong 1973-1974 nhờ kết quả của một sự hỗn hợp cưỡng bức, tuyên truyền và
sự hữu hiệu của Ủy Ban Công An Jacobins và các viên chức của họ trong việc tiếp
tế cho một đội quân gần 1 triệu người.
Giữ gìn năng lực của Quốc Hội Nghị Viện cùng các ủy ban của nó là đòi hỏi
của phe cánh Sans-Culottes rằng chỉ có một sự tổng động viên giàu nghèo giống như
nhau mới có thể cứu được thể chế Cộng Hoà: Vào ngày 23 tháng Tám, tất cả đàn ông
độc thân tuổi từ 18-25 đều được trưng binh hàng loạt.:
“Các chàng trai trẻ sẽ đi chiến đấu. Đàn ông có vợ sẽ đến các đơn vị sản
xuất vũ khí và vận tải. Phụ nữ sản xuất lều trại và quân trang. Những người già
sẽ được đưa đến những nơi công cộng để khuyến khích sự dũng cảm của các chiến
sĩ, để rao truyền sự thù ghét đối với vua chúa và duy trì sự đoàn kết của thể
chế Cộng Hoà.”
Các đơn vị Vệ Binh Quốc Gia lãnh
nhiệm vụ săn lùng những người trốn tránh việc động viên hay đào ngũ. Việc trưng
binh tại các vùng không nói tiếng Pháp dùng một sự hướng dẫn căn bản bằng tiếng
Pháp và quân lính trưng binh mới được chia rải rác ra trong khắp quân đội để giảm
thiểu sức quyến rũ của việc chiến đấu tập trung sự tuyên truyền đám đông, chẳng
hạn như tờ báo khiêu dâm hạ cấp ‘Le Père
Duchesne’ của Hébert được phân phát và ‘các
đại biểu đặc nhiệm’ đến từ Nghị Viện được bảo đảm quyền trừng phạt nhanh chóng
đối với những sĩ quan do dự và những cấp dưới không sẵn lòng. Sự xây dựng một
tinh thần mới trong quân đội không phải duy nhất là kết quả của sự cưỡng chế: các
thư từ của quân lính gửi về nhà cũng chứa đầy những nhận xét về nhiệt tâm Cách
Mạng và cam kết của họ đối với Tổ Quốc. Anh chàng tình nguyện quân Pierre Cohin
từ đạo quân phía Bắc đã viết về gia đình:
“Cuộc chiến chúng ta đang chiến đấu không phải là một chiến tranh giữa
vua với vua hay giữa quốc gia với quốc gia. Đó là một cuộc chiến của tự do chống
lại độc tài. Không còn nghi ngờ gì rằng chúng ta sẽ chiến thắng. Một đất nước có
công lý và tự do thì không thể bị đánh bại.”
Nền văn hóa chính trị của thể chế
Cộng Hoà ám chỉ đến những mối quan hệ mới với giới chức thẩm quyền. Sự thiết lập
những đạo quân Cộng Hoà lớn lao gồm quân chính quy và quân tình nguyện bây giờ hỗn hợp đã gây nguy hiểm cho một nền
văn hoá quân sự đã trở thành một mô hình thu nhỏ của xã hội ‘hồi sinh’ như Quốc
Hội Nghị Viện đã dự đoán.
Sắc luật Tình Nghi ban hành ngày
17 tháng Chín được tạo ra để đưa những
‘kẻ không yêu nước” đi giam giữ hay để hù dọa họ không dám hành động. Sự việc ủy
ban giám sát bắt giữ những ’kẻ tình nghi’ trực tiếp tới những người, theo định
nghĩa, có hành động hay yếu tố có liên hệ với chế độ cũ. Tại Rouen, 29% trong số
1158 người tình nghi bị bắt giữ là giới quý tộc, 19% là giáo sĩ và 7.5% là những
người nắm giữ chức vụ quản trị trước đây. Họ bị bắt giữ vì thân thế của họ đi đôi
với những nghi ngờ về tư cách. Họ không phải là những người duy nhất bị bắt giữ:
có tới 16.8 % là đám tư sản và giới lao động chiếm 27%. Trong khi nhiều người
trong giới thường dân làm việc cho chế độ cũ, những người bị bắt giữ bị buộc tội
vì những lời nói hay hành vi chống đối Cách Mạng. Trong số các chủ tiệm, các hành
vi này thường có liên quan đến việc đầu cơ tích trữ hàng hóa. Đáng kể là có tới
39.4 % người bị tình nghi là phụ nữ, đặc biệt trong giới quý tộc và giáo sĩ. Điều
này phản ánh cái xu hướng đàn ông trong 2 nhóm nhày đã di tản, để lại phụ nữ trở
thành trung tâm điểm của sự tình nghi vì tên tuổi của gia đình họ và sự ủng hộ
những người không tuyên thệ.
Những tháng này là cao điểm của
quần chúng can hệ vào việc ủng hộ cũng như chống đối cuộc Cách Mạng. Ngay từ năm
1789 mà cái biểu hiệu của tự do, sau đó
là chính cuộc Cách Mạng đã có dáng dấp nữ tính, có lẽ vì trong ngôn ngữ Pháp, các
đức tính và phẩm chất cổ điển thuộc giống cái và trong sự bắt chước vô ý thức của
Công Giáo về đức tính của Mẹ Maria. Cuối năm 1793, nữ thần tự do và ngay cả chính
cuộc Cách Mạng đã bị những kẻ chống đối ám chỉ khi liên hệ đến một cách chế nhạo
như “Marianne”, một cái tên chung chung của người dân quê có nghĩa là “thuộc về người dân”. Cũng như trong trường
hợp từ ngữ Sans-Culottes, những người Cộng Hoà sau đó đã thừa nhận cái tên
Marianne với niềm tự hào. Vào ngày 14 tháng 11 năm 1793. một viên chức đã tường
thuật từ Narbonne:
“Các nhà thờ, ngoại trừ 2 cái, đã bị gạt bỏ ra ngoài và sự cải tổ này đã
chỉ làm cho một ít phụ nữ nhiệt thành phàn nàn. Họ kiên quyết từ chối tin vào
Thượng Đế mà các linh mục tuyên thệ theo Hiến Pháp mang đến với họ. Họ đặc biệt
vui thích chứng kiến khi họ gặp gỡ và thăm dò tin tức về Cách Mạng. Họ thừa nhận
với một giọng điệu buồn rầu và xoắn mắt xoắn môi trong một nụ cười thành kính:
“Marianne sao rồi? – A! nàng ấy không khoẻ lắm, Nàng chắc chẳng sống lâu đâu –
hay : cô ấy đỡ rồi. Cô đang hồi phục.”
Nhiều cộng đồng vùng xa xôi và những khu thành thị lân cận đã dùng những chiến lược
đa dạng để tránh né hay công khai chống đối những yêu sách của chính quyền
trung ương và các đại diện địa phương của chính phủ. Những sự kháng cự đối với
những đòi hỏi quá đáng của chính quyền Cách Mạng được biểu lộ qua việc không trả
thuế, tránh tối đa các loại phí thu trên giá cả của các món hàng tiêu thụ nhu yếu
phẩm và lương bổng và không chịu xử dụng tiền giấy Assignat. Tuy nhiên, sự chống
đối chính trị vào thời điểm chiến tranh ẩn tàng sự đe doạ có thể bị kết án tử hình
cho tội phản quốc. Tại Nantes, Carrier được ủng hộ bởi những người Cộng Hoà giận
dữ và muốn trả thù khi ông ta ra lệnh dìm chết đuối tới 1800 dân Vendée nổi loạn, gồm cả các linh
mục.
Tại Vendée, sự đàn áp các cuộc nổi
dậy không chút khoan nhượng. Trong khi nhiều người lãnh đạo theo phe Liên Bang
được coi là người Cộng Hoà, họ đã được thoả hiệp 2 mặt: Trước hết, bởi vì họ đã
phủ nhận uy quyền của Quốc Hội Nghị Viện ở cái thời điểm thể chế Cộng Hoà đang
khủng hoảng quân sự nghiêm trọng nhất. Thứ hai, bởi vì sự ủng hộ họ nhận được từ
phe bảo hoàng, giới quý tộc và các giáo sĩ do sự liên kết đã làm họ bị lu mờ.
Thật dễ dàng cho phe cánh Jacobins sơn phết đám người Liên Bang này ở trong một
đội ngũ chung với đội quân của chế độ cũ. Tại Marseilles, 499 trong số 975 người
bị tình nghi đã bị toà án Cách Mạng kết án có tội với 289 người bị hành quyết.
Ngược lại tại Lyons, 1880 người được một toà ít câu nệ tuyên án nhẹ hơn. Collot
d’Herbois thuộc Ủy Ban Công An đã ra lệnh xử bắn để trừng phạt thành phố “Ville
Affranchie” đổi tên. Trong số những người bị xử bắn có Antoine Lamouette, một
Giám Mục đã tuyên thệ theo Hiến Pháp của Lyons, người đã thuyết phục được mọi
phe phái của Hội Đồng Lập Pháp trong một buổi họp ngày 7 tháng Bẩy vào thời kỳ
khủng hoảng quân sự đầu tiên.
Trong lời tuyên bố của chính quyền
Cách Mạng ngày 10 tháng Mười, Ủy Ban Công An đã loan báo rằng: “Chính phủ lâm thời của Pháp là (chính quyền)
Cách Mạng cho đến khi có hòa bình.” Tất cả các cơ quan và quân đội lúc này
được đặt duới sự kiểm soát của Ủy Ban mà nó sẽ báo cáo hàng tuần lên Quốc Hội
Nghị Viện. Trong cùng tháng, theo bước chân Marie-Antoine lên giàn hành quyết là
21 đại biểu Girondins đã bị khai trừ hồi tháng Sáu. Sau đó đến phiên Bailly và
Barnave.
Trong số những người phe
Girondins bị hành quyết có đại biểu và là nhà báo Gorsas, người đã trốn khỏi thủ
đô hôm 2 tháng Sáu. Ông ta đã tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang tại Normandy và
trốn đi khi bị thất bại. Ông ta bị bắt khi quay trở lại Paris thăm tình nhân của
ông.
Trong khi, ngay từ khởi đầu của
toà án Cách Mạng Paris vào tháng Ba 1793, chỉ có 66 trong số 260 kẻ bị tình
nghi bị tìm thấy có tội đại hình; đến ba tháng cuối cùng trong năm, con số có tội
có tới 177 trong số 395 ngưởi bị tố cáo. Tuy nhiên, cho tới tháng Sáu 1794, hầu
hết những kẻ bị tình nghi chưa bao giờ xuất hiện trước toà án. Những người đã
ra toà thì 40% được tha bổng. Những kẻ kém may mắn đối diện cái chết và ngỏ lời
vĩnh biệt tới những người thân yêu. Trong tháng Mười, Marie-Madeleine Coutelet,
người làm việc trong một xưởng dệt vải gai tại Paris bị bắt giữ vì những lá thư
được tìm thấy trong phòng cô chỉ trích những hạn chế của thời Khủng Bố. Coutelet đã khăng khăng
một cách vô ích rằng đó chỉ là những sự chế nhạo mỉa mai mà thôi. Lá thư cuối cùng
cô viết cho cha mẹ:
“Xin vĩnh biệt, con xin hôn cha mẹ lần cuối. Con là đứa con đáng yêu, tình
cảm nhất của cha mẹ trong các chị em. Ngày hôm nay, con tìm thấy điều tốt đẹp
nhất mà đấng Tối Cao đã ban cho. Hãy cứ sống và nghĩ về con với nỗi vui mừng
trong cái hạnh phúc đang chờ đón con. Tôi ôm hôn các bạn và xin biết ơn tất cả
những người đã có lòng tốt nói lên tiếng nói bảo vệ tôi. Xin vĩnh biệt lần cuối.
Mong rằng các con cái tôi hạnh phúc. Đó là mong ước cuối cùng của tôi.”
May mắn hơn là anh chàng thư ký
26 tuổi Jean-Louis Laplane, người đã trốn khỏi Marseilles đi lưu vong vào giữa
tháng Chín, theo lời của anh ta: “đã bị
theo đuổi bởi một lũ người man rợ đã bao phủ nước Pháp bằng máu và tang tóc.”
Cuộc tổng động viên trên toàn lãnh
thổ đòi hỏi Nghị Viện đi những bước để tạo nên một sự đoàn kết mới bằng những
biện pháp tích cực cũng như bằng sự hù doạ. Trong 2 ngày 5 và 6 tháng Chín, hàng
ngàn người Sans-Culottes, lúc này đang ở trên đỉnh quyền lực đã tràn vào xâm
chiếm Quốc Hội Nghị Viện để nằng nặc đòi những “lệnh lạc” của họ phải đem áp đặt những biện pháp kinh tế và quân sự
cấp tiến. Nghị Viện đã hành động để thoả mãn những yêu sách của ngày này (hay sự
nổi dậy này) bằng việc ra nghị quyết ngày 29 tháng Chín giữ ổn định giá cả của 31 loại hàng hoá ở mức giá thời 1790 cộng
thêm 1 phần 3 và ấn định lương bổng ở 150% mức lương 1790.
Quốc Hội Nghị Viện cũng bị buộc phải
đáp lại những làn sóng bất ổn vùng quê xa xôi đã ảnh hưởng 2 phần 3 các tỉnh lỵ
kể từ 1789. Trong khi việc bênh vực cho sự phân chia các bất động sản lớn lao,
hay còn gọi là “luật nông nghiệp” bị coi là tội đại hình trong tháng Ba 1793,
phe cánh Jacobins sau đó đã thực thi một loạt các biện pháp tạo ra để
lấy lòng đám đông quê mùa, một điều kiện không thể bỏ qua được cho sự thành
công quân sự. Vào 14 tháng Tám 1792, Hội Đồng Lập Pháp đã ấn hành một nghị quyết
cấp tiến ngắn gọn trực tiếp chỉ đạo các công xã phân chia vùng đất công không
phải là rừng cây. Vào 10 tháng Sáu 1793, Nghị Viện đã thay thế luật này với một
điều luật còn cấp tiến và gây tranh cãi hơn, một trong những cố gắng tham vọng
nhất của chính quyền Cách Mạng để thoả mãn những nhu cầu của đám dân nghèo. Điều
luật yêu cầu các công xã xúc tiến việc phân chia nếu đây là ước muốn của 1 phần
3 cánh đàn ông trưởng thành. Đất đai sau đó được phân chia trên căn bản chia đều
cho từng người (đàn ông, đàn bà và trẻ em). Tuy nhiên, phí tổn trả công cho các
thanh tra viên đã làm giảm bớt sự có ích của điều luật này như một phương cách
giải quyết một vấn đề đã gây chia rẽ những người dân quê xa xôi: Đó là liệu những
lợi ích của dân nghèo có được bảo đảm tốt
nhất qua việc chia ra hay giữ lại đất công? Một loạt các biện pháp đã thúc đẩy
nghị quyết ngày 25 tháng Tám 1792 đi xa hơn theo chiều hướng một sự xóa bỏ hoàn
toàn chế độ lãnh chúa. Từ 17 tháng Bẩy 1793, những tay cựu lãnh chúa chỉ còn lại
những lợi tức thuê mướn và lệ phí hoàn toàn trên đất đai và không còn chế độ phong
kiến. Chế độ phong kiến đã chết vào giữa năm 1793 không phải vì những cuộc hội
họp liên tiếp đã đưa ra một loạt các cuộc tấn công ngày càng mạnh bạo hơn vào
những yêu sách chồng chất của một trật tự xã hội lâu cả một thế kỷ, nhưng bởi vì
họ bị buộc phải đáp ứng một loạt các làn sóng những hành động chống lại thể chế
lãnh chúa từ khắp mọi vùng miền.
Cuộc Cách Mạng miền quê xa xôi kéo
dài chống lại thể chế lãnh chúa đã ràng buộc các cộng đồng xa xôi lại với nhau.
Lúc này chế độ phong kiến đã chết, sự chia rẽ nội bộ trong pham vi xã hội vùng
quê bắt đầu nổi lên. Ngay từ khởi đầu cuộc Cách Mạng, sự đụng chạm trong cái điều
luật chống chế độ lãnh chúa năm 1789 đã nằm sâu sẵn trong sự xung đột chung về việc làm chủ và kiểm soát đất hoang. Chế độ lãnh chúa cuối cùng
đã hoàn toàn bị xóa bỏ, nhưnng cần lâu hơn nữa để giải quyết những câu hỏi liên
quan đến việc kiểm soát các tài nguyên kinh tế tập trung, đến việc thèm muốn đất
đai và những việc khai quang. Mặc dù nhóm
Jacobins sẵn sàng giới hạn tự do cá nhân vì lợi ích quốc gia, cuối cùng họ cũng
không thành công hơn những đồng viện tiền nhiệm thuộc phe tự do của họ. Trong một
báo cáo được viết từ Lagrasse ngày 8 tháng 12 năm 1793, viên chức Jacobins
Cailhava đã tường thuật rằng : “khu vực
trước đây là đồng cỏ và bụi rậm bao phủ với những cây sồi xanh, nhưng đối với Cách
Mạng, mỗi cá nhân coi chúng như những bắp cải trong vườn nhà họ.” Cailhava đã giải thích điều này là vì sự
thu hút vì giá cả cao của than và vỏ cây, nhưng cũng bởi vì đám chăn cừu bò có thói quen lùa đàn gia súc tới
những vùng có cây cối dồi dào cỏ non nhất vào mùa đông. Một nhà quý tộc có lòng
tốt đã bỏ lại khoảng 300 mẫu rừng khi ông ta di dân ra nước ngoài. Khu rừng đã bị phá hủy, đào gốc
rễ, cướp phá và đàn dê đến gặm cỏ hàng ngày.
Tại khu quận Narbonne đã có một sự thiếu hụt cây cối trầm trọng vì cư dân
tỏ vẻ coi thường đối với những cây chỉ mang lại tí bóng mát. Riêng với loại cây
sồi, thì chiến tranh cứ liên tục để tranh giành chúng, vì vỏ của rễ cây sồi là
loại thuốc nhuộm màu tốt nhất cho việc thuộc da. Người dân đã sẵn sàng để khai
quang thêm đất mới, và thật đáng lo ngại vì cái hăng hái vô ý thức trong việc chuyển
đổi tất cả đất đai thành những cánh đồng.
Những do dự của các nhà làm luật
về thể chế lãnh chúa và quyền xử dụng đất đai đã đổ thêm dầu vào nền chính trị
vùng xa xôi trong những năm 1792-1794, làm trầm trọng thêm những chia rẽ đã gây
ra từ sự cải tổ Giáo Hội. Cuộc Cách Mạng vùng quê xa xôi có nhịp điệu và năng động
nội tại riêng của nó, phát sinh từ cái bản chất riêng biệt của địa phương. Cái
hình thức chính xác mà nền chính trị vùng quê khoác lấy là một phận sự phải hiểu
biết về những lợi ích và những khó nhọc mà Cách Mạng mang lại, về những thái độ
đối với Giáo Hội và về những cấu trúc xã hội địa phương. Bởi thế, khi những thái
độ chính trị biến đổi trên khắp vùng quê, thái độ vững chắc nhất ở khắp nơi là
sự thù ghét cho cả chế độ cũ và những khái niệm tư bản về các quyền sở hữu tài sản riêng tư. Việc kêu gọi cho một
‘luật nông nghiệp’ tại miền Đông Bắc tương tự như việc gia tăng chống tư sản ở
miền Tây, ở vùng Brittany và vài nơi khác. Tại Neulisse (Loire), bọn thanh niên
có vũ trang đang tập trung cho việc bỏ phiếu chọn việc nhập ngũ năm 1793 đã thực hiện việc lựa chọn riêng của họ trong
việc lựa ra 15 người mà xã phải cung cấp:
vị linh mục ngả theo hiến pháp và 14 tay
tư sản “ái quốc”, những người đã hưởng lợi nhất từ cuộc Cách Mạng. Ngược lại, sự
hỗn hợp đặc biệt về các đạo đức dân sự mà qua đó các thành phần
Sans-Culottes thực thụ đã được Antoine
Bonnet, một chủ quán cà phê và bí thư của Ủy Bam giám sát tại Belley thuộc tỉnh
Ain nói rõ:
“Con người với cảm giác đồng cảm hơn học thức, đạo đức, nhạy cảm, nhân
tính; con người phẫn nộ vì lời thì thầm nhỏ nhẹ nhất của sự bất công; con người dũng cảm
và nhiệt huyết luôn mong muốn lợi ích chung, tự do, bình đẳng hay là chết.”
Mọi khu vực miền xa xôi đều có những
san sẻ từ những người Jacobins nhiệt tình thường đọc báo chí Paris và báo chí địa
phương hay họ có chân trong các câu lạc bộ Jacobins và các đoàn thể công cộng.
Tờ La Feuille Villagroise của Cerutti, đặc biệt nhắm tới các độc giả vùng quê
xa xôi đã bán được 8000 đến 16000 ấn bản. Người ta đánh giá rằng, vì các ấn bản
nhật báo được chuyền tay nhau và được phát thanh tại các cộng đồng xa xôi, độc
giả của nó có thể lên tới 250,000 người trong năm 1793. Ban quản trị hành chánh của Gers đã đăng ký
mua mỗi ấn bản cho tất cả 599 xã của tỉnh. Trong cả nước có lẽ có tới 6000 câu
lạc bộ Jacobins và các hịêp hội xã hội phổ thông được thành lập trong thời Khủng
Bố, mặc dù nhiều hội sau đó chết yểu. Mặc
dù phổ thông nhất ờ các thị trấn nhỏ, tại vùng Provence, 75% – 90% làng xã có một
hiệp hội, dấu hiệu của đời sống chính trị sinh động tại vùng Đông Nam nơi lại cũng
duy trì những nhà phản Cách Mạng hăng say.
Paris thời 1792 – 1794 là cái
trung tâm ồn ào xao động của cuộc Cách Mạng, nơi mà số lượng đông đảo thường dân
và binh lính qua lại cùng hiện hữu một cách khó khăn với những cộng đồng ngoại ô
có từ lâu đời. Những xáo trộn của thành phố thường đơn giản do cái chính sách mạnh
mẽ. Trong một tình trạng như thế, sự lan
toả tin tức từ 1000 người bán báo dạo ngoài đường với nhữntg tiếng rao vang dội của họ đã tạo nên một thành phố inh ỏi với đủ
loại tin đồn pha trộn, lạc quan có, nghi ngờ có. Điều luật về” Tình Nghi” được
kiến tạo để chế ngự nỗi bất an như vậy. Trong sự thực thi điều luật, các phân bộ
ủy ban với cả ngàn cảnh sát của họ, tập họp từ công vụ mỗi nửa tháng bởi tất cả các trai tráng mạnh khoẻ đã đóng một
vai trò cơ bản. Dối trá, thù hận cá nhân và những lời tố cáo đã tìm được một vùng
đất màu mỡ, lại còn các hoạt động của giới có thẩm quyền trong các ban bộ tự ấn định cho cái hợp pháp và đúng đắn của họ.
Trong khoảng 18 tháng giữa tháng
Tám 1792 và đầu năm 1794, sự tham gia chính trị của tầng lớp dân lao động Paris
lên tới đỉnh cao. Trong khi sự thực chỉ có chừng 10% nam nhân đều đặn tham dự các
buổi họp ban bộ và cũng khoảng phần trăm tương tự đám dân quân Sans-Culottes
thuộc giới tư sản theo nghề nghiệp, điều này vẫn là một mức độ đáng chú ý về sự
tham gia quần chúng vào thời điểm giờ lao động trong ngày quá dài, xếp hàng mua
thực phẩm và những lo lắng về sự sống còn.
Điều đó phản ánh một mức độ chưa có tiền lệ trong cái thành phần xã hội
của chính quyền địa phương. Thí dụ như tại Paris, một phần ba các thành viên hội
đồng xã là thường dân, cũng như 4 phần 5 ở các ủy ban Cách Mạng được bầu chọn tại
từng mỗi cái trong 48 ban bộ của thành phố. Mục tiêu chính trị và xã hội của đám
Sans-Culottes cũng được biểu lộ qua hơn
40 hiệp hội phổ thông với khoảng 6000 hội viên của chừng 86% là thợ thủ công và
công nhân có lương; và trên hết trong các buổi hội họp các ban bộ địa phương. Một
sự phân tích về các câu lạc bộ Jacobins vùng miền trong
khoảng 1789-1791 so sánh với 1793-1795 chỉ ra rằng con số thợ thủ công và
các chủ tiệm đã gia tăng từ 38.6 tới 45% và chủ trang trại từ 1.1 tới 9.6%. Tỷ
lệ các thương gia và người buôn bán lại giảm đi từ 12.1 còn 8.2%, trong khi giới
Giáo Sĩ cũng giảm thiểu từ 6.7 xuống 1.6%. Giới quý tộc có 0.6% trước đó đã hoàn
toàn biến mất.
Mặc dù các nhà quản trị tổ chức và
tổng động viên quân đội tại miền quê đối diện rất nhiều khó khăn, họ đã thành công
nhiều hơn thất bại: cả người tình nguyện và người được động viên đều gia nhập
quân đội rất đông, số lượng lương thực và xe cộ trưng thu đầy đủ. Tuy nhiên, chế
độ Cộng Hoà Jacobins 1793-1794 là một chế độ đòi hỏi: ngôn ngữ cùa lòng yêu nước, của chủ nghĩa
Jacobins và quyền công dân được pha trộn với tiếng gọi của sự thiêng liêng, của
sự xung công và lệnh trưng binh. Đó là một chế độ mà trong đó các đại diện địa
phương phủ nhận bất cứ gì, đánh đập vào những giả dối của chế độ cũ và đe doạ
những người cố chấp. Theo lời một viên
chức miền Nam: ‘Thời điểm của những giả dối
vô lý đã qua. Quốc Hội Nghị Viện vinh danh và công nhận tài năng và đạo đức. Cây Cộng Hoà đang bị lung lay và với đám sâu
bọ đang gặm nhấm, nó sẽ đổ xuống.”
Hai ngôi làng mà cuốn sách này liên
hệ đến ở đầu sách là điển hinh của những nơi đã duy trì được cái nỗ lực phi thường
của chiến tranh 1793-1794. Menucourt cũng là một trong hàng ngàn các làng mạc mà
những năm tháng Cách Mạng đã trôi qua tương đối bình yên: Những cải tổ của Hội
Đồng Quốc Gia được chào đón và ủng hộ; sự trưng dụng người và tiếp liệu vật chất
trong những năm chiến tranh được miễn cưỡng chấp nhận. Tin tức về Cách Mạng và
về khủng bố đã về tới làng nhanh chóng, nhưng những sự chia rẽ chính trị tại
Paris không ảnh hưởng ở đó và không ai bị hành quyết. Chỉ có một biến cố chính
trị địa phương duy nhất về kết quả đã xảy ra vào 20 tháng Chín 1792. Trong cái ngày mà quân đội Cách Mạng đang chiến
đấu cho một chiến thắng quyết định đầu tiên tại Valmy ở miền Đông nước Pháp, và
Quốc Hội Nghị Viện đang họp bàn tại Paris. Prosper Vacher, một thợ làm vườn
trong lâu đài quý tộc đã đáp lại lời chào “Tổ
Quốc muôn năm” do một nhóm 50 “cảm tử
quân” bằng một sự đốp chát: “Vạn tuế
Đức vua”. Tuy nhiên sau đó Vacher đã được thả ra khi anh ngỏ lời xin lỗi.
Menucourt là một thị xã nhỏ và khá xa xôi để có thể tránh được những giai đoạn
chia rẽ của cuộc Cách Mạng. Một số phần trách nhiệm cho việc này do bởi vị linh
mục Thomas Duboscq, người chỉ mới 39 tuổi và mới đến Menucourt vào tháng Hai
1789 nhưng đã trở nên một nguồn vững chắc
như một linh mục đi theo hiến pháp, giống
như 70% linh mục trong tỉnh và là một công chức được bầu chọn. Vào tháng Giêng 1794, ông từ chức linh mục. Tháng sau đó, những giáo dân cũ
của ông đã hát lên những bài ca yêu nước mà ông ta đã sáng tác cho sự trồng cấy
lên một cây tự do.
Tại Gabian, những năm tháng Cách
Mạng không được bình yên như tại Menucourt, nhưng ngôi làng trở nên nổi tiếng
cho học thuyết Cộng Hoà của họ. Một lý do cho việc này là vì sự xóa bỏ chế độ lãnh
chúa đã làm giảm bớt một gánh nặng to lớn cho họ. Một lý do khác là, không như
hầu hết các linh mục trong khu vực Bézier, vị linh mục chính xứ của Gabian,
Pierre Blanc đã tuyên thệ trung thành trong ngày đầu năm 1791 và ở lại trong làng.
Dường như là sự nổi giận về việc Blanc ủng hộ cho Cách Mạng có thể đã là một
nguyên cớ cho một giai đoạn kéo dài sự vi phạm luật lệ mà sau đó trở thành phản
Cách Mạng. Trong khoảng 1791-1793, một nhóm nam nữ địa phương đã vi phạm 30 tội
trộm cắp, thường có bạo động, khi họ trên đường trốn chạy. Họ thích thú khi nhạo
báng các viên chức Cách Mạng, những người cố bắt giữ họ. Sau vụ hành quyết vua
Louis XVI và sự xâm lăng của quân Tây Ban Nha ở phía Nam vào năm 1793, họ công
khai đe doạ rằng ”quân đội Tây Ban Nha sẽ làm cho
bọn “yêu nước Gabian” nhảy múa và họ sẽ hội nhập vào bọn Tây Ban Nha để giúp chúng
làm cho dân Gabian nhảy nhổm và rồi đem đi
cắt cổ…” Mọi việc đang trở nên tốt hơn tại Vendée. Nhiều tên trong đám côn
đồ này có lẽ đã bị hành quyết vào 1794. Tuy nhiên, Ủy Ban Giám Sát tại Gabian tin
tưởng rằng, ở cái thời điển khủng hoảng, họ chẳng có lựa chọn nào khác hơn ngoài
việc bắt giữ chúng:
“Chúng ta đã làm đúng những gì chúng ta có thể. Thật là ngọt ngào và
vinh quang cho chúng ta được là một phần của xã hội với sự chắc chắn có được sự
tôn trọng công cộng và niềm tin sẽ không cảm thấy hối hận.”
Hai ngôi làng may mắn đã có vị
linh mục ở lại giáo xứ với họ. Đối với
vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong phong trào phản cách mạng, người ta không
thể tránh khỏi việc đặt dấu hỏi về sự tồn tại của cấu trúc tôn giáo bên trong
nước Pháp. Để thực thi kế hoạch khủng bố, các đại biểu được gửi đến các vùng miền
như các ‘đại biểu đặc nhiệm’ chẳng hạn như Fouché trong vùng Nièvre và Javogues
tại các tỉnh lỵ quanh Lyons, đã có sáng kiến đóng cửa các nhà thờ và tịch thu tất
cả các kim loại trong đó cho nỗ lực phục vụ chiến tranh. Có những khu vực trên đất
nước nơi người dân địa phương có khuynh hướng tham gia vào phong trào chống tôn
giáo này hay có khi còn khai mào điều đó.Tuy nhiên, ở những nơi khác, nó gây phẫn
uất một cách cay đắng. Cuộc vận động chống
Thiên Chúa Giáo đã trùng hợp ngẫu nhiên và thường được nhận diện cùng với những
hoạt động của 45 đạo quân Cách Mạng (30,000 đến 40,000 người) hoạt động trong
56 tỉnh bang vào mùa thu 1793. Những đám dân quân Sans-Culottes này đã hỗn hợp
với đám người chạy trốn pháp luật và những người khác ra vẻ chỉ đơn giản vui thích
với trò tụ tập kết bạn rong chơi, tự cho mình cái nhiệm vụ đi trưng thu thực phẩm
cho thành phố và quân đội, đi thu thuế và thanh trừng những người phản Cách Mạng,
chiếm hữu kim loại trong nhà thờ để làm dụng cụ chiến tranh và duy trì nhiệt tâm
Cách Mạng. Tầm cỡ của những đám này đa dạng từ những nhóm nhỏ chừng 10 người đến
những đạo quân lớn tới 7000 tại các vùng Aveyron, Lozère và Paris.
Vào cuối mùa thu 1793, làn sóng
quân sự dường như đổi chiều. Các trận chiến thắng quân Anh trong tháng Chín và
Mười ở tại Hondshoote gần Dunkerque và quân Áo tại Wattignies đã đánh lui đợt xâm
lăng ở miền Bắc. Sau đó các đạo quân của Wesermann đè bẹp đám tàn dư của quân nổi
loạn Vendée tại Savenay ngày 23 tháng 12 đã thuyết phục nhiều người rằng ít ra
sự kiểm soát thời khủng bố có thể được buông lỏng.
Tuy nhiên, sự đáp trả của chính
quyền thì ngược lại. Một mặt, một nghị quyết ngày 6 tháng 12 khẳng định nguyên
tắc tự do thờ phượng, việc chống Thiên Chúa Giáo được coi như sự khinh thường một
tôn giáo không cần thiết. Mặt khác, một bộ luật quan trọng nhất về chính quyền địa
phương được thông qua 2 hôm trước đó khẳng định sự ưu trội của chính quyền
trung ương cao hơn quyền tham dự và sáng kiến của công chúng. Đìều khoản I của
bộ luật 4 tháng 12 kiên định rằng: “Quốc
Hội Nghị Viện là trung tâm điểm duy nhất của các sáng kiến chính quyền.” Đối với nhiều người, chính quyền trung ương bây
giờ càng ngày càng đại diện cho sự trấn áp tùy tiện, làm bất cứ gì trong vai trò
của nó để bảo đảm những chiến thắng về quân sự. Nhà báo Louis-Sébastien Mercier, người được bầu
chọn giống như Antoine-Joseph Gorsas ở tỉnh lỵ Seine-et-Oise gần Paris đã bị cầm
tù vào tháng Mười 1793 vì đã nói chống lại việc thanh trừng nhóm Girondins. Đối
với Mercier: “Thiên Chúa đã dành cho tôi
quyền sinh sống mãi mãi tại ngọn núi này hơn là trong miệng núi lửa đầy lưu huỳnh
nơi chứa đầy những con người nhuộm đầy máu và bùn đất hệt như những con quái vật
hung dữ.” Tuy nhiên, những người
Jacobins mà ông thù ghét đã không coi mình như những con người khát máu và bần thỉu, mà họ cho rằng mình là
những đại biểu của dân được tín nhiệm trong việc cứu vớt chế độ Cộng Hoà và tạo
nên một xã hội đáng sống.
No comments:
Post a Comment