Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799

                                      by Peter McPhee                          Người dịch: Phương Duy


Lời tựa


 

Cuộc Cách Mạng Pháp là một trong những khúc quanh lịch sử lớn lao nhất. Trước đó chưa từng có người dân của một đất nước to lớn và đông dân  nào cố công tái tạo xã hội của họ trên căn bản của nguyên tắc chủ quyền phổ thông như vậy. Tất cả những bi hài, thành công, thảm kịch từ đó và những cố gắng để duy trì hay lật đổ nó đều luôn thu hút sinh viên học giả  nghiên cứu qua hơn hai thế kỷ. Mặc dù  trong dịp kỷ niệm 200 năm 1989, các nhà báo cánh hữu đã nhanh chóng tuyên bố rằng Cách Mạng Pháp đã hoàn tất, tầm quan trọng và sức lôi cuốn của nó đối với chúng ta không hề suy giảm.
Kể từ khi hàng ngàn người dân Paris vũ trang đi đến đột kích thành lũy Bastille hôm 14 tháng Bẩy 1789, người ta đã tranh luận về nguồn gốc và ý nghĩa của những gì đã xảy ra. Tất cả đều đồng ý về tính chất nổi bật  và chưa từng xảy ra của cuộc đột kích vào Bastille và những hành động cách mạng có tính kết hợp  trong khoảng giữa tháng Năm và tháng Mười 1789. Tuy nhiên, chung cuộc của các biến cố này đã không chỉ ra được bất cứ dấu hiệu kết luận nào cho cuộc tranh luận về khởi nguồn của cuộc Cách Mạng.
Những năm tháng sau 1789, các chính quyền cách mạng kế tục cố tìm cách sửa chữa mọi khía cạnh của cuộc sống theo như cách họ hiểu biết để tạo thành  những nguyên tắc củng cố cho cuộc Cách Mạng 1789. Tuy nhiên, do không thể có sự đồng thuận trong sự áp dụng những nguyên tắc này, câu hỏi về cuộc Cách Mạng thuộc về ai mau chóng trở nên  một lý do chia rẽ dẫn dắt cuộc Cách Mạng đến những chiều hướng mới. Cùng lúc đó, những địch thủ nặng ký về sự đổi thay từ trong và ngoài nước Pháp đã buộc các chính quyền phải có những biện pháp để tự duy trì Cách mạng với đỉnh điểm là thời kỳ khủng bố 1793-1794.
Những kẻ cầm quyền trong những năm đó luôn khẳng định rằng cuộc Cách Mạng đã hoàn thành vì đã đạt được mục tiêu và trật tự xã hội đã được ổn định. Khi vua Louis XVI  (bị ép) về sống tại  Paris vào tháng Mười 1789, khi Hội Đồng Quốc Gia  xử dụng bạo lực trong việc giải tán đám đông  yêu cầu lật đổ nhà vua trong tháng Bẩy  năm 1791, hoặc khi Quốc Hội Nghị Viện giới thiệu Hiến Pháp năm Cách Mạng thứ Ba vào năm  1795, lần nào cũng được khẳng định rằng đó là thời điểm để ngưng mọi diễn tiến  thay đổi Cách Mạng. Cuối cùng, chính sự tiến chiếm quyền lực của Napoleon Bonaparte vào tháng Mười Hai 1799 mới là cố gắng thành tựu nhất trong việc áp đặt một tình trạng ổn định.
Những sử gia đầu tiên khảo sát về cuộc Cách Mạng lúc đó đã bắt đầu phác họa không chỉ là những bản tường thuật về các sự kiện Cách Mạng, mà họ cũng đã có những phán đoán về  những kết quả của sự thay đổi Cách Mạng. Chẳng hạn như: Cuộc Cách Mạng Pháp đã mang  tới cái tinh thần cách mạng như thế nào? Sự bất ổn về chính trị kéo dài trong những năm tháng này có che đậy một sự ổn định về mặt kinh tế và xã hội  mang nhiều tính chất căn bản hơn không? Liệu cuộc Cách Mạng Pháp có phải là khúc quanh chính thức của lịch sử nước Pháp và cả thế giới như những người ủng hộ nó tuyên bố, hay đó là một thời kỳ kéo dài của những biến động đầy bạo lực và chiến tranh đã hủy hoại hàng triệu sinh linh?
Tập sách này là một câu chuyện tường thuật về cuộc Cách Mạng, đồng thời tìm kiếm lời đáp cho những câu hỏi căn bản kể trên. Tại sao có một cuộc cách mạng vào năm 1789?  Tại sao điều đó chứng tỏ rằng thật khó khăn để củng cố một chế độ mới? Thời kỳ khủng bố có thể được giải thích ra sao? Một thập niên thay đổi cách mạng đem lại kết quả gì? Cuốn sách nêu lên sự phong phú bao la của việc viết sử trong vài thập niên qua, trong đó có một vài phần thuộc về các cuộc tái tranh luận vào thời điểm kỷ niện 200 năm  của Cách Mạng 1789, nhưng phần lớn của tập sách chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi rộng rãi hơn khi tác giả đi sâu sát vào  việc viết sử.
Bốn chủ đề nổi bật trong số đa dạng các cách tiếp cận cuộc Cách Mạng Pháp trong những năm trước đây. Thứ nhất là việc áp dụng một nhận thức giàu tưởng tượng hơn về chính trị thế giới bằng cách đặt sự thực thi quyền lực trong bối cảnh một nền văn hoá chính trị và trong lãnh vực công chúng. Có nghĩa là, cách tiếp cận này tranh luận rằng, chúng ta có thể bắt đầu hiểu biết về cuộc Cách Mạng Pháp, chỉ khi nào đi ra khỏi sân toà và quốc hội để cứu xét đến một danh sách đầy đủ hơn về những phương cách mà người dân nghĩ và hành động bên ngoài chính trị.  Nối liền với cách tiếp cận này là một cách tiếp cận thứ hai, qua đó xem xét lại ảnh hưởng thống trị của nam giới lên nền chính trị lập hiến và sự đáp trả mãnh liệt lên những thách đố nam quyền của  phái nữ. Như một hệ quả, cách tiếp cận thứ ba là mở lại những tranh luận về nguồn gốc của các cuộc khủng bố giai đoạn 1793- 1794:  Liệu những mầm mống của nền chính trị đầy đàn áp và chết chóc trong thời kỳ đó có được bắt nguồn từ những giây phút khởi đầu của cuộc Cách Mạng, hay từ chính năm 1789, hay khủng bố là sự đáp trả trực tiếp cho cuộc khủng hoảng quân sự đầy tuyệt vọng năm 1793? Cuối cùng, và có phần khác hơn, một hứng thú mới  qua cách tiếp cận với trải nghiệm của người dân thường đã giúp các sử gia khảo sát rộng rãi hơn về kinh nghiệm nông thôn  của cách mạng. Một kích thước mà trải nghiệm đó sẽ được nhấn mạnh ở đây có liên can đến lịch sử của môi trường nông thôn.
Mười năm Cách Mạng Pháp cũng rất quan trọng cho sự phát sinh  một số tuyên ngôn về những tư tưởng và học thuyết chính trị, như bản Tuyên ngôn về Nam Quyền và quyền Công Dân năm 1789 và bản Hiến Pháp Jacobin 1793. Những biểu lộ đương thời của một số màn kịch bi thảm của cuộc Cách Mạng, chẳng hạn như cuộc thảm sát tháng Chín năm 1792, dường như quá tàn bạo một cách bất thường. Vì lý do đó, những phần chính yếu của hàng loạt rộng lớn các tài liệu được tái tạo ở đây cho chúng ta có khả năng tốt hơn để lắng nghe những tiếng nói đa dạng về cuộc Cách Mạng Pháp.
Người bạn đồng sự Chips Sowerwine của tôi đã viết cho bản thảo về  sự ích lợi trong tầm nhìn phê phán rất bác học của ông: tôi biết ơn ông về điều đó cũng như về tình thân hữu và sự khuyến khích của ông. Bản thảo này cũng được tu sửa tốt hơn qua góc nhìn phê bình của Charlotte Allen, Judy Anderson, Glenn Matthews, Tim Tackett và Suzie Schmitz, nhưng dĩ nhiên không ai trong số họ phải chịu trách nhiệm cho những thiếu sót của tập sách này. Đồng thời tập sách cũng có sự hỗ trợ đầy giá trị của Juliet Flesch, Marcia Gilchrist và Kate Mustafa.

Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799

                                                             by Peter McPhee

Chương 1: Nước Pháp những năm 1780s


Đặc điểm quan trọng nhất của nước Pháp vào thế kỷ 18 là đây là một xã hội nông thôn.  Người dân Pháp sống tại các làng mạc thôn quê thuở đó đông gấp mười lần thời nay. Vào năm 1780, dân số Pháp ước chừng 28 triệu dân. Nếu chúng ta cho rằng một vùng có trên 2000 người sinh sống được gọi là một đô thị, thì trong thế lỷ 18, chỉ có  20% sinh sống tại các trung tâm đô thị. Đại đa số dân chúng sinh sống ở  trong số 38.000 các cộng đồng thôn quê hay các giáo xứ với cư dân trung bình chừng 600 người.  Dưới đây là một sơ lược về 2 ngôi làng trong số đó cho chúng ta thấy vài đặc tính của thế giới vùng nông thôn xa xôi.

Ngôi làng bé nhỏ Menucourt là một điển hình đó tại miền Vexin nằm về phía Bắc Paris. Ngôi làng nằm ở giữa  2 giòng sông Seine và sông Oise uốn khúc, cách thị trấn gần nhất Pontoise chừng vài cây số và cách Paris khoảng 35 cây theo đường chim bay. Đó là một ngôi làng rất nhỏ với khoảng 280 cư dân sống trong 70 hộ gia đình, mặc dù đã tăng lên từ 38 hộ vào năm 1711.  Người đứng đầu làng hay vị lãnh chúa là Jean Marie Chassepot de Beaumont, vào năm 1789 đã 76 tuổi. Năm 1785, ông ta thành công trong việc khẩn cầu nhà vua ban cho quyền được thiết lập giấy tờ đất đai hợp pháp để hệ thống hoá việc tăng cuờng thu góp  thuế địa tô phong kiến mà dân làng miễn cưỡng phải thừa nhận.  Trang trại trồng ngũ cốc của viên lãnh chúa này thống trị nền kinh tế của thôn làng, cũng như lâu đài của ông bá chủ các ngôi nhà ổ chuột của dân làng. Các cánh đồng cày cấy chiếm 58% trên 352 mẫu đất của làng với rừng cây chiếm 26%. Một số cư dân có trồng nho hay làm nghề đốn gỗ lấy từ những cây dẻ ở phía Nam ngôi làng để chế biến thành các thùng gỗ đựng rượu và cây cọc. Một số khác khai thác đá để xây nhà cho các đô thị Rouen và Paris. Cái hoạt động mang tính thị trường này còn có được phụ thêm vào sự tồn tại của kinh tế với những mảnh vườn nhỏ trồng rau củ và trái cây như hồ đào, cam, táo,lê, mận, xê ri, đi hái nấm và hạt dẻ trong rừng và sản xuất thịt và sữa từ 200 con cừu và khoảng  năm sáu chục con bò. Cũng như hầu hết các làng mạc khắp nơi trên nước Pháp, dân cư thường làm nhiều ngành nghề cùng một lúc: chẳng hạn như Pierre Huard vừa mở quán trọ vừa bán sỉ rượu vang, và ông ta cũng là người thợ xây trong làng.

Trong khi đó, ngôi làng Gabian ở 20 kms phía Bắc Béziers gần bờ biển Languedoc vùng Địa Trung Hải lại có sinh hoạt rất khác biệt.  Đa số cư dân Gabian không thể tiếp xúc với những thần dân đồng hương của họ tại Menucourt vì hầu hết cư dân Languedoc nói ngôn ngữ Occitan trong sinh hoạt thường ngày. Gabian là một ngôi làng quan trọng với sự cung cấp liên tục nước suối và kể từ năm 988, lãnh chúa của họ là vị giám mục cai quản vùng Béziers. Mỗi năm thuế  địa tô  phải đóng góp cho vị lãnh chúa giám mục này là 100 sét tê lúa mạch (một sét tê chứa khoảng 85 lít), 28 thùng sét tê lúa mì, 880 chai dầu ô liu, 18 con gà,  4 cân Anh sáp ong, 4 chim đa đa, và một con thỏ. Nhắc lại vai trò cổ xưa của Gabian như một thị trường nằm giữa miền núi và miền biển, do đó làng cũng phải trả thêm  1 cân tiêu, 2 ounce hạt nhục đậu khấu ( một ounce chừng  28 gram) và 2 ounce đinh hương. 2 vị lãnh chúa khác cũng có chút đòi hỏi qua sản phẩm của họ. Cũng như Menucourt, Gabian mang tính chất đa dạng của một nền kinh tế đa văn hoá, khoảng 770 cư dân trong làng sản xuất hầu hết những nhu cầu của họ trên 1540 mẫu đất của làng. Trong khi Menucourt nối kết với những thị trường rộng lớn hơn qua kỹ nghệ gỗ và và đá xây nhà, nền kinh tế tiền mặt của Gabian đặt căn bản trên những mảnh vườn nho và len vải từ đàn cừu 1000 con gặm cỏ trên những sườn đồi sỏi đá bao quanh làng. Một số người dệt len cừu làm việc cho đám thương buôn đến từ thành phố vải sợi Bédarieux ờ phía Bắc.

Đã từ lâu vương triều có ý áp đặt một sự thống nhất về ngôn ngữ lên những làng như Gabian bằng cách yêu cầu các linh mục và luật gia dùng ngôn ngữ Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các thần dân của nhà vua không dùng tiếng Pháp trong sinh hoạt thường ngày. Quả thực, có thể nói rằng ngôn  ngữ mà hầu hết người Pháp thường nghe là tiếng La Tinh vào những sáng Chúa Nhật. Trên khắp nước, tiếng Pháp chỉ được xử dụng thường ngày với những người làm việc trong ngành quản trị, thương mại và các nghề chuyên nghiệp. Thành viên của hàng giáo sĩ cũng xử dụng tiếng Pháp, mặc dù họ vẫn thuyết giảng bằng ngôn ngữ địa phương. Hàng triệu cư dân Languedoc nói đủ loại thổ ngữ Occitants: tiếng Flemish được nói ờ vùng Đông Bắc; Tiếng Đức ở vùng Lorraine. Lại có những dân tộc thiểu số vùng Basques, Catalans và Celts. Những người nói tiếng điạ phương này lại khác biệt nhau trong từng vùng miền. Ngay tại khu Ile-de-France nằm quanh Paris đã có những khác biệt nho nhỏ trong tiếng Pháp được nói từ khu này qua khu kia. Khi Abbé Albert từ vùng Alps phía Nam đi qua vùng Auvergne, ông ta khám phá rằng:

“Tôi chẳng hiểu người dân quê ở đây nói gì khi gặp họ trên đường. Tôi nói với họ bằng tiếng Pháp, rồi tiếng địa phương của tôi. Tôi cũng thử xài tiếng La Tinh nhưng hoàn toàn vô hiệu. Cuối cùng khi tôi đầu hàng chẳng biết làm sao cho họ hiểu tôi lấy một chữ; đối lại, họ cũng nói với tôi một ngôn ngữ mà tôi cũng mù tịt.”

Có hai đặc tính quan trọng nhất mà người dân nước Pháp ở thế kỷ 18 có chung là họ đều là thần dân của nhà vua và 97% dân số là người Công Giáo. Nước Pháp vào thập niên 1780s là một xã hội với ý nghĩa sâu đậm nhất về bản sắc của người dân gắn liền với vùng miền họ sinh sống. Các nền văn hoá vùng miền và các thổ ngữ được đặt căn bản với những chiến lược kinh tế tìm kiếm sự thoả mãn nhu cầu của các hộ dân trong phạm vi thị trường vùng miền địa phương hay chỉ trong làng xóm. Do đó, nền kinh tế thôn quê thiết yếu là một nền kinh tế nông nghiệp, đó là sự sản xuất nông phẩm đặt căn  bản trên  gia đình có chiều hướng lấy sự sống còn làm tiên quyết. Cái hệ thống đa văn hoá phức tạp này cố gắng sản xuất ra những nhu cầu tiêu thụ thiết yếu nhất có thể tự túc được của một hộ gia đình, bao gồm cả trang phục.

Nicolas Resif de la Bretone, sinh năm 1734 tại làng Sacy ở ranh giới giữa 2 vùng Burgundy và Champagne đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về cái thế giới thôn dã này. Restif đã di chuyển đến Paris và trở nên nổi tiếng với những chuyện dung tục trong tác phẩm Le Paysan Perverti năm 1775 (Tên nông dân đồi bại), được viết từ những hồi ức của ông tại Sacy trong cuốn ‘Cuộc Sống của Cha Tôi 1779 (La vie de mon père)’. Ông ta nhắc đến cuộc hôn nhân xứng đôi và hạnh phúc của  Marguerite người thân của ông đã sống chung với  Covin, một người kể chuyện địa phương, tiếu lâm, cường tráng, một kẻ chân quê hão huyền:

Marguerite có mảnh đất trồng trọt trị giá khoảng 120 livres và Covin có một mảnh khác giá 600 livres, một khu đất trồng trọt được, một khu là vườn nho, và một số khu nằm rải rác trên đồng cỏ. Mỗi loại có sáu phần: sáu phần lúa mì, sáu phần lúa mạch và sáu phần bỏ hoang. Về phần người vợ, bà có lợi tức từ việc quay tơ, lông lấy từ đàn cừu 7 hay 8 con, trứng từ hơn chục gà mái, sữa từ bò với bơ và phó mát làm ra từ sữa. Covin cũng là người thợ dệt vải và vợ ông làm công việc nhà. Kết quả là bà có vẻ khá hài lòng.”

Người dân phố thị thường bóng gió dân vùng sâu vùng xa như ‘bọn nhà quê’. Tuy nhiên  thành ngữ đơn giản này che đậy hết những phức tạp của một xã hội thôn quê nơi mà hành vi đa dạng của con người thôn dã được  phát giác  trong cuộc Cách Mạng. Có tới  một nửa dân số sống trong những khu vực nông nghiệp rộng lớn như Ile-the-France ở quanh Paris là người làm thuê cho các nông trại. Tuy nhiên tại hầu hết các vùng miền, đa số dân chúng là những người sở hữu đất nhỏ bé, những trại chủ  thuê đất hay những người làm khoán chia lợi tức, nhiều người trong số họ còn phụ thuộc vào nghề thủ công hay những công việc được trả lương. Trong mọi cộng đồng thôn dã, thường là có một số ít các đại trang chủ, thường được gọi là những trưởng lão của làng, họ là những chủ đất hay trại chủ thuê đất canh tác. Những làng mạc to lớn hơn cũng có một số nhỏ là các linh mục, luật gia, thợ thủ công và các công nhân ngành vải sợi. Họ chẳng phải là nông dân nhưng  thường sỡ hữu chút ít đất đai, chẳng hạn như các linh mục có những mảnh vườn trồng rau. Giới nông dân chiếm tới bốn phần năm tầng lớp thứ Ba (hay còn gọi là tầng lớp thường dân), nhưng họ chỉ làm chủ hoàn toàn khoảng 40% đất đai trong cả nước. Tỷ lệ này thay đổi từ 17% trên vùng Mauges ở miền Tây nước Pháp tới 64% trong vùng Auvergne.

Dường như có vẻ nghịch lý, nhưng vùng thôn dã Pháp cũng là trung tâm của hầu hết các ngành chế tạo. Đặc biệt kỹ nghệ vải sợi đa phần đặt nền tảng trên công việc bán thời của phụ nữ trong những khu vực thôn quê của vùng Normandy, Velay và Picardy. Kỹ nghệ thôn quê thuộc loại này nối kết với những ngành nghề chuyên môn tập trung tại các đô thị trong vùng, thí dụ ngành làm bao tay da cừu tại Millau, làm ríp bông tại St-Étienne, ngành làm ren tại Le Puy và ngành dệt lụa tại Lyons. Một nghiên cứu trước đây của Liana Vardi về kỹ nghệ thôn quê chú trọng đến Montigny, một cộng đồng chừng 600 cư dân vào những năm 1780s thuộc miền Bắc Cambrésis, chỉ mới trực thuộc nước Pháp kể từ 1677. Vào đầu thế kỷ 18, số những chủ đất và người thuê đất chỉ có khoảng một phần ba con số trên. Trong suốt thế kỷ ấy, các chủ đất và trại chủ thuê đất đã độc quyền đất đai và tăng gia chuyên nghiệp vào ngành sản xuất bắp. Ngược lại, những nông dân trung lưu và nhỏ đã tìm được ngành quay tơ dệt vải để chống chỏi lại sự nghèo khổ và thiếu thốn đất đai. Một nền kỹ nghệ nông thôn phát triển nhưng rất mỏng manh tại Montigny đặt căn bản trong việc các lái buôn đặt hàng cho việc quay tơ dệt vải tới các hộ nông gia. Đối lại, kỹ nghệ sợi vải cung cấp một sự khuyến khích cho các trại chủ gia tăng năng xuất mùa màng đáng kể để nuôi sống dân số trên đà gia tăng. Những người vừa là thương nhân vừa dệt vải trung lưu đã giữ một vai trò thiết yếu ở những vùng như Montigny khi họ cầm cố tài sản nhỏ nhoi của gia đình để tham gia vào cuộc chạy đua làm giàu nhanh chóng. Những người này duy trì bản sắc dân quê trong sự nối kết giữa những chiến lược kinh tế cùng lúc với việc họ tỏ ra một năng khiếu và nhiệt tâm về doanh nghiệp rất đáng chú ý.

Tuy nhiên, Montigny là một trường hợp ngoại lệ. Hầu hết vùng quê nước Pháp là nơi vẫn tiếp tục lao động chân tay trong việc cày bừa trên mặt đất. Một thế giới nông thôn nơi các hộ gia đình tham gia vào một chiến thuật ngành nghề rất phức tạp để bảo đảm sự sống còn của chính họ thường không tránh khỏi gặt hái những năng xuất thấp vì mùa màng cày cấy trên những mảnh đất khô cằn  hay quá tải. Những mảnh đất khô cằn đầy sỏi đá ở phía Nam như làng Gabian đã không còn thích hợp cho mùa màng hơn vùng đất nặng nề ẩm thấp của Normandy. Tuy nhiên, ở cả hai vùng, phần lớn đất trồng trọt được đã được dành riêng ra trồng ngũ cốc cho nhu cầu địa phương. Kết quả là hầu hết các cộng đồng thôn quê hạn  chế số sản phẩm thặng dư dành cho thị trường các đô thị trọng yếu. Quan trọng hơn đối với nông dân là những thị trấn nhỏ ở gần nơi các hội chợ phiên tổ chức hàng tuần, hàng tháng hay hàng năm cũng  vừa là cơ hội cho những lễ hội tập thể của văn hoá  địa phương cũng như để trao đổi sản phẩm.

Các cộng đồng thôn quê đã tiêu thụ  phần lớn các sản phẩm chính họ tạo ra, và ngược lại, các thị trấn và đô thị đối mặt với vấn đề cung cấp thực phẩm một cách triền miên và một đòi hỏi hạn chế của dân quê về hàng hoá và dịch vụ của họ. Tuy nhiên, mặc dù chỉ có 20% dân số Pháp sống trong các cộng đồng phố thị, Pháp lại được coi là có số lượng và kích thước các thành phố  và thị trấn đáng kể trong bối cảnh Âu châu đương thời. Đã có 8 thành phố có dân số trên 50,000 người mà Paris là thành phố lớn nhất với chừng 700,000 dân, rồi tới Lyons, Marseilles, Bordeaux, Nantes, Lille, Rouen và Toulouse, khoảng 70 thị trấn có từ 10,000 đến 40,000 cư dân. Những thành phố, thị xã này đều có những khuôn mẫu về các ngành chế tạo sản xuất quy mô rộng lớn có liên hệ đến mạng lưới thương mại quốc tế, nhưng hầu hết vẫn chịu sự bá chủ bởi các ngành nghề thủ công nghệ  cho chính những nhu cầu của  cư dân trong thành phố và các vùng nội địa lân cận và qua một loạt các nhiệm vụ về quản trị hành chánh, tư pháp, giáo phận và chính sách. Đó cũng là những thủ phủ của từng khu vực. Tỷ lệ dân số chỉ có 1 trên 40 người sống tại Paris và sự thông tin liên lạc giữa hoàng cung Versailles và phần lãnh thổ còn lại của đất nước luôn luôn chậm  chạp và không chắc chắn. Kích thước và địa hình của đất nước là một chướng ngại vật thường xuyên cho việc di chuyển nhanh chóng các chỉ đạo, luật lệ và hàng hóa. Tuy nhiên, những cải thiện về đường xá sau năm 1750  đã cho phép không thành phố nào của nước Pháp  cách xa  thủ đô phải  giao tiếp tới hơn 15 ngày đường. Các cỗ xe ngựa di hành với tốc độ 90 cây số một ngày đã có thể đưa khách du hành đi từ Paris tới Lyons, một thành phố lớn thứ nhì của Pháp với hơn 145,000 cư dân trong vòng 5 ngày.

Giống như nhiều thành phố khác, Paris được bao quanh bởi một bức tường thành, phần lớn là để tận thu thuế hàng hoá nhập vào thành phố. Bên trong những bức tường là các khu ngoại ô mà mỗi khu có sự hỗn hợp khác biệt về nhóm người di dân và đủ loại giao dịch thương mại. Paris điển hình cho những thành phố lớn của Pháp với cấu tạo ngành nghề  riêng của nó. Thành phố vẫn do ngành sản xuất thủ công nghệ và dân có tay nghề thống trị, mặc dù đã có sự xuất hiện của một số các ngành đại công nghiệp. Một số các đại công nghiệp quan trọng nhất thuộc khu ngoại ô St-Antoine nơi xưởng sản xuất giấy dán tường Réveillon thuê mướn tới 350 công nhân và nhà máy rượu bia Santerre với 800 công nhân.  Trong khu vực hàng xóm lân cận phía Tây thành phố, ngành kỹ nghệ xây cất phát triển mạnh với luật lệ xây dựng tốt buộc các cư dân phải di rời khỏi những khu xóm ổ chuột thời Trung cổ ở trung tâm thành phố. Tuy nhiên, hầu hết dân Paris tiếp tục sống trong những khu  đường hẻm ngõ cụt tại các vùng lân cận bên bờ sông, nơi dân số bị chia cắt riêng ra chen chúc trong những chung cư cho thuê chật chội, và là nơi những nhà tư sản giàu có và cả những nhà quý tộc chiếm hữu tầng trệt và lầu một để mở cửa hàng và văn phòng làm việc. Những người khác như gia nhân, thợ thủ công và người nghèo cư ngụ ở các tầng trên và gác xép. Trong các cộng đồng thôn quê, Giáo hội Công Giáo cũng hiện diện liên lỷ. Có chừng 140 tu viện nam nữ tại Paris là nơi sinh sống của 1000 nam tu sĩ và 2500 nữ tu và chừng 1200 linh mục quản giáo xứ. Giáo hội sở hữu một phần tư tài sản của thành phố.

Paris cũng được bá chủ bởi các tiệm buôn bán lẻ và hãng xưởng dịch vụ nhỏ bé: Hàng ngàn các tiểu thương thuê mướn chừng 3 hay 4 công nhân. Trong giao dịch có tay nghề cao, các chủ nhân kiểm soát sự gia nhập của những thợ lưu động, những người thường đạt tiêu chuẩn qua việc  trình bày những thành(sản) phẩm của họ trong chuyến lưu hành quanh nước Pháp qua việc chuyên môn hoá nghề nghiệp tại những trung tâm các phố thị vùng miền. Đây là một thế giới trong đó các tiểu chủ nhân và các công nhân có tay nghề ràng buộc với nhau qua sự hiểu biết sâu rộng nghề nghiệp của họ và về sự hiểu biết nhau và cũng là nơi các công nhân có tay nghề được khám phá ra  từ nghề nghiệp của họ cũng như qua việc họ là chủ hay là thợ. Người đương thời thường coi dân lao động Paris như những “thường dân”, có nghĩa họ không thuộc về giai cấp công nhân. Tuy nhiên những đối kháng giữa công nhân và giới chủ nhân thật rõ rệt trong các ngành nghề nơi thật khó khăn để trở thành địa vị chủ nhân. Trong một số kỹ nghệ như ngành in ấn chẳng hạn, việc xử dụng máy móc mới đã ảnh hưởng đến tài nghệ của đám thợ lưu động và những người học nghề. Trong năm 1776, thợ lãnh lương có tay nghề đã vui mừng ở viễn ảnh huỷ bỏ các nghiệp đoàn và cơ hội thiết lập cơ xưởng riêng của họ, nhưng rồi dự án đã bị xếp xó. Sau đó năm 1781, một hệ thống “sổ sách cho công nhân” được giới thiệu cho các tay chủ nhân thêm sức mạnh để đối phó với các công nhân ngang bướng.

Quan hệ xã hội cũng chú trọng đến tình hàng xóm và bạn đồng sở như tình gia đình. Những thành phố lớn như Paris, Lyons và Marseilles mang sắc thái của những trung tâm đông đúc chật chội và có tính cách thời Trung Cổ nơi hầu hết các gia đình chỉ cư ngụ trong một hay hai căn phòng, hầu hết những sinh hoạt thường ngày liên quan đến ăn uống và giải trí là những hoạt động chung. Các sử gia đã có những tài liệu về việc phụ nữ đã xử dụng đường phố và nhiều khoảng trống công cộng để giải quyết các tranh chấp riêng tư cũng như các vấn đề về giá cả thuê mướn và thực phẩm. Đàn ông trong các dịch vụ tay nghề cao tìm thấy tinh thần đoàn kết của họ trong  các hội thân hữu, không chính danh nhưng mang tính chất anh em lao động bao dung với mục đích bảo vệ các tập quán lao động và lương bổng, đồng thời cung cấp những nơi chỗ  để giải trí và sinh hoạt sau một ngày lao động 14 tới 16 giờ. Jacques-Lois Ménétra, một trong những công nhân trên sau này đã nhớ lại những ngày tháng học việc như một thợ làm kiếng vào trước cuộc Cách Mạng về một môi trường nổi loạn của các bạn đồng sự với sự thích thú  trong những trò đùa nghịch tục tĩu, dâm ô đến nghi thức hoá cả bạo lực với những hội đoàn anh em khác. Tuy nhiên, Ménétra cũng tuyên bố là đã có đọc các tác phẩm  ‘Contrat Social (khế ước xã hội) và Émile et la nouvelle Héloise’ của Rousseau và đã từng gặp gỡ tác giả.

Các thành phố thuộc vùng miền thường có những kỹ nghệ riêng biệt bá chủ, chẳng hạn như kỹ nghệ tại Rouen và Elbeuf. Những trung tâm phố thị mới và nhỏ hơn mọc lên quanh những xưởng đúc sắt thép và các mỏ than như tại Le Creusot, Niederbronn và Anzin, nơi có 4000 công nhân được thuê mướn. Tuy nhiên, đặc biệt tại những hải cảng vùng Đại Tây Dương nơi ngành mậu dịch thuộc địa phát triển mạnh mẽ với những thuộc địa vùng Caribbean  đang phát triển một khu vực kinh tế thuộc địa trong ngành đóng tàu và việc trao đổi hàng hoá thuộc địa, chẳng hạn như tại Bordeaux, nơi dân số tăng  từ 67,000 lên tới 110,000 cư dân trong khoảng 1750 đến 1790. Đây là một ngành mậu dịch ba chiều giữa Âu Châu, Bắc Mỹ và Phi Châu qua sự xuất cảng rượu các loại từ những cảng như Bordeaux qua Anh Quốc và nhập các sản phẩm thuộc địa như đường, cà phê và thuốc lá. Lại có một đường lối thương mại dính líu đến việc đóng tàu nhắm mục tiêu chuyên chở nô lệ mà chúng chuyển giao các chuyến tàu nô lệ từ bờ Tây của Phi Châu tới các thuộc địa khác như St-Domimique. Đã có tới 465,500 nô lệ làm việc trong nền kinh tế đồn điền do 31,000 ông chủ da trắng kiểm soát chiếu theo những quy định của Luật Đen ban hành 1685. Luật lệ áp đặt những quy định về việc đối xử đúng cách đối với những tài sản cùa các chủ nô lệ, trong khi chối bỏ bất cứ quyền lợi hợp pháp và quyền gia đình nào cho các nô lệ. Có nghĩa là con cái của các nô lệ cũng là tài sản riêng của chủ nô. Trong năm 1785 đã có 143 con tàu chủ động tham gia vào hoạt động buôn bán nô lệ: 48 tại Nantes, La Rochelle và Le Havre có mỗi nơi 37 tàu, 13  tại Bordeaux và số còn lại đến từ Marseilles, Malo và Dunkerque. Tại Nantes, ngành buôn bán nô lệ chiếm tới 20 đến 25% hoạt động của hải cảng trong những năm 1780s. Tại Bordeaux, 8 đến 15% và tại La Rochelle lên tới 58% trong năm 1786. Trong suốt thế kỷ kể từ 1707, những tàu nô lệ này đã thực hiện hơn 3,300 chuyến hải hành, 42% tronng số là từ Nantes: hoạt động của chúng chủ yếu là cho việc kinh tế nở rộ trong các hải cảng vùng Đại Tây Dương vào thế kỷ 18.

Tuy nhiên, hầu hết các gia đình thuộc thành phần trung lưu có được thanh thế và lợi tức của họ từ các hoạt động có tính truyền thống hơn như trong các ngành luật  hay các ngành chuyên môn khác, trong  hệ thống quản trị hoàng gia và từ những tài sản đem đầu tư. Có lẽ 15% tài sản thôn quê là do những tư sản này sở hữu. Trong khi giới quý tộc thống trị hầu hết những vị trí cao trọng nhất trong ngành quản trị, những vị trí thấp hơn được dành chỗ cho giai cấp trung lưu. Ngành quản trị hoàng gia tại hoàng cung Versailles rất nhỏ bé với chỉ có 670 công nhân, nhưng xuyên suốt qua mạng lưới các thành phố vùng miền khu vực, nó cần thuê mướn hàng ngàn người trong các tòa án, công sở và chính quyền. Đối với giới tư sản đã có những phương tiện đáng kể, không có đầu tư nào hấp dẫn và đáng tôn trọng hơn những trái phiếu của chinh phủ với lợi tức tuy thấp nhưng  thật an toàn hay sở hữu đất đai hoặc chức danh lãnh chúa. Đặc biệt cái chức danh này mang lại nhiều hy vọng để tiến thân xã hội và ngay cả có thể tiến vào giới quý tộc qua ngã hôn nhân. Đến thập niên 1780s có đến một phần năm các lãnh chúa ở vùng quê quanh Le Mans là những người xuất thân từ giới tư sản.


Nước Pháp thế kỷ 18 mang đặc tính những nối kết đa dạng giữa thành phố và thôn quê. Đặc biệt tại các thị trấn khu vực vùng miền quê, giới tư sản sở hữu tài sản miền quê của họ mà từ nơi đó họ cho các trang chủ nông dân thuê mướn. Đối lại, công việc làm dịch vụ trong nhà của các gia đình tư sản là nơi cung cấp công ăn việc làm cho các cô gái quê trẻ. Các cô gái kém may mắn hơn hành nghề điếm hay làm việc trong các cơ sở từ thiện. Một liên hệ giao kết khác giữa thành thị và thôn quê liên quan đến việc các phụ nữ có công ăn việc làm trong thành phố lớn như Lyons và Paris đã gửi các con nhỏ của họ về các khu vực đồng quê cho các dịch vụ chăm sóc trẻ nhỏ, thường trong nhiều năm. Các em bé sơ sinh có nhiều cơ hội sống sót hơn tại vùng quê, nhưng có tới một phần ba đã chết khi đang được chăm sóc ở đó (oái ăm thay, bà mẹ của người thợ lắp kiếng Jacques-Louis Ménétra đã chết khi ông ta được chăm sóc ở vùng quê). Một loại hình thức công việc khác bao gồm hàng ngàn đàn ông trai tráng ở những vùng cao nguyên đối diện một mùa khô hạn kéo dài trong mùa đông đã di chuyển đến các phố thị theo từng mùa hay nhiều khi trong nhiều năm để tìm việc làm. Bọn họ bỏ lại sau lưng một xã hội được mệnh danh là xã hội “vắng đàn ôngg” nơi phụ nữ có khuynh hướng chăn nuôi gia súc và sản xuất tơ sợi.

Tuy nhiên, cái nối kết quan trọng nhất giữa thành phố và thôn quê Pháp là việc cung cấp thực phẩm, đặc biệt là mễ cốc. Đây là một nối kết thường gây căng thẳng giữa sự tranh chấp tranh đua những nhu cầu của người tiêu thụ của cả dân phố thị lẫn dân thôn quê, Trong những lúc bình thường, dân thành phố sống bằng tiền lương chi tiêu từ 40 đến 60% lợi tức chỉ riêng cho khẩu phần bánh mì. Khi giá cả tăng lên trong những năm mất mùa, sự căng thẳng cũng tăng theo giữa dân thành thị phụ thuộc vào giá cả bánh mì và thành phần dân nghèo khổ trong cộng đồng thôn quê do sự hăm doạ của các con buôn địa phương tìm cách xuất ngũ cốc đi đến những thị trường khác có lợi nhuận cao. 22 năm trong khoảng từ 1765 đến 1689 đánh dấu giai đoạn khủng hoảng thực phẩm, khi thì ở tại thành phố ở những khu vực dân lao động nơi phụ nữ đặc biệt tìm cách áp đặt luật thuế phổ thông để giữ giá cả ở mức hạn định, khi thì tại thôn quê nơi nông dân tập họp lại với nhau để ngăn chặn những tiếp phẩm hiếm hoi bị gửi ra ngoài thị trường.  Tại nhiều khu vực, mối căng thẳng về việc cung cấp thực phẩm còn trầm trọng thêm qua sự nghi ngờ các thành phố lớn là kẻ ăn bám trên sức lao động thôn quê, do bởi các chức sắc trong giáo hội và trong giới quý tộc thu vén sự giàu có của họ từ vùng thôn quê và đem tiêu xài huyênh hoang tại các phố thị.  Tuy nhiên, trong suốt quá trình ấy, họ cũng tạo nên công ăn việc làm cho cư dân thành phố và có hứa hẹn giúp đỡ người nghèo.

Nước Pháp thế kỷ 18 là vùng đất đầy rẫy nghèo khổ với hầu hết mọi người lân cảnh túng quẫn khi mùa màng thất bát. Đây là điều giải thích cho cái mà các nhà viết sử gọi là: “sự cân bằng nhân khẩu”, khi xã hội có tỷ lệ sinh xuất cao (4.5%) đồng thời cũng gần tương xứng với tử xuất cao (3.5%). Nam nữ lấy nhau khá muộn: thường ở độ tuổi 26 – 29 cho nam và 24 – 27 cho nữ. Đặc biệt trong những khu vực mộ đạo nơi các cặp vợ chồng hiếm khi ngừa thai bằng phương pháp tự nhiên (cho xuất tinh ra ngoài), phụ nữ thường có thai gần như mỗi năm một lần. Tuy nhiên, hầu hết mọi nơi trong nước, gần một nửa trẻ em qua đời vì những căn bệnh trẻ em và do thiếu dinh dưỡng ở độ tuổi lên 5. Thí dụ tại Gabian, đã có 235 trẻ qua đời trong 1780s với 134 đứa dưới 5 tuổi. Trong khi độ tuổi già cũng không phải là không được biết, trong năm 1783 chỉ có 3 người thọ  tới 80 và 2 người thọ 90 tuổi được chôn cất. Đời sống trung bình của những người sống sót sau thời sơ sinh chỉ có 50 năm.

Sau 1750, nhiều năm liên tiếp đựợc mùa đã làm xáo trộn đến sự cân bằng nhân khẩu do dân số gia tăng nhanh từ khoảng 24.5 triệu lên tới 28 triệu vào 1780s. Tuy nhiên, yếu điểm của dân số gia tăng này không đơn thuần là một vận hành của sự đe doạ luôn luôn hiện hữu về mùa màng thất bát. Trên hết, chính cái dân số thôn quê đã bảo hiểm giá phải trả cho cái thế ba chân về quyền thế và đặc quyền của nước Pháp thế kỷ 18:  Giáo hội, quý tộc và vương triều. Cả ba thành phần này đã đòi hỏi đóng góp trung bình khoảng từ một phần ba tới một phần tư sản phẩm của giới nông dân qua thuế má, lệ phí và thu tô.

169,500 thành viên  thuộc giới giáo sĩ, tầng lớp số một của đất nước chỉ chiếm 0.6% dân số. Tầng lớp này lại  phân chia ra làm hai giữa 81,500 tu dòng bao gồm 26,500 thầy tu và 55,000 nữ tu theo phẩm trật tôn giáo và khoảng 59,500 tu triều bao gồm 39,000 limh mục quản xứ và 20, 500 phó xứ, những người cai quản các nhu cầu tâm linh của tầng lớp xã hội thế tục. Lại cũng có nhiều loại giáo sĩ thế tục khác. Trong lãnh vực xã hội, Giáo hội rất mực tôn ti trật tự. Những vị trí có lợi nhuận cao nhất như đầu não trật tự tôn giáo (thường được bỏ trống) và như các chức gám mục, tổng giám mục do giới quý tộc làm bá chủ: tổng giám mục của giáo phận Strasbourg có lợi tức thường niên 450,000 đồng livres. Mặc dù tiền lương của linh mục quản xứ và phó xứ đã gia tăng   trong năm 1776 (quản xứ  750 và phó xứ 300 livres một năm), lợi tức như vậy chỉ cho họ sống dễ dàng hơn  giáo hữu của họ chút ít.

Giáo hội có được tài sản  phần lớn từ  thu phí thập phân bắt buộc  đóng góp từ các mùa màng nông trại, luôn luôn trong khoảng 8 đến 10%, mang lại số lợi tức khoảng 150 triệu livres mỗi năm và từ những vùng đất mênh mông do các tu viện và giáo phận sở hữu. Phần này được chi trả như một phần lương bổng cho các linh mục bản xứ, bổ xung vào những lệ phí địa phương mà họ đã thu từ những dịch vụ đặc biệt như đám cưới đám tang. Nói chung, tầng lớp số một này sở hữu chừng 10% đất đai toàn nước Pháp, lên tới 40% ở vùng Cambrésis nơi thuế phí và tiền cho thuê đất thu góp được lên tới 130 triệu livres mỗi năm. Tại các phố thị thuộc vùng quê,  người ta thường gặp các tu sĩ nam nữ theo chế độ ‘mở’;  thí dụ, có tới 600 người trong số 12,000 cư dân tại Chartres là những người tu kiểu mở này. Tại nhiều thành phố ở các tỉnh vùng, Giáo Hội cũng là chủ sở hữu tài sản chính thức: thí dụ tại Angers, Giáo Hội sở hữu ba phần tư tài sản đô thị.  Tại đây cũng như nhiều nơi khác, đó là nguồn chính cung cấp các công việc làm ăn địa phương: nghề giúp việc nhà, thợ thủ công nghệ và các luật gia đáp ứng nhu cầu của 600 tu sĩ địa phương tronng một thành phố 34,000 cư dân: thư ký, thợ mộc, đầu bếp và  dọn dẹp vệ sinh phụ thuộc vào họ, cũng như các luật sư  làm việc trong 53 toà án của Giáo hội để nghiêm trị những người trốn tránh thuế má và tiền thuê mướn đất đai. Tu viện Bénédictine tại Ronceray làm chủ 5 dinh thự, 12 vựa ngũ cốc và máy ép nho, 6 nhà máy sản xuất, 46 nông trại và 6 khu nhà ở ờ khắp miền quê quanh Angers, thu vào lợi tức mỗi năm 27,000 livres cho thành phố.

Vào thập niên 1780s, nhiều tu viện nam đi vào tàn lụi:  vua Louis XV  đã đóng cửa 458 tu viện (với chỉ có 509 tu sĩ) trước khi ông băng hà năm 1774. Sự tuyển mộ tu sĩ cũng giảm thiểu  một phần trong hai thập niên sau năm 1770. Các tu viện nữ có vẻ hoạt động mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như dòng Các Chị Em Nhân Ái tại Bayeux đã cung cấp thực phẩm và nơi cư trú cho hàng trăm phụ nữ nghèo khổ qua công việc sản xuất ren rộng rãi. Tuy nhiên trong cả nước Pháp, hàng giáo sĩ địa phương chính là trung tâm của cộng đồng, vừa là nguồn chỗ dựa tinh thần và sự cảm hứng, vừa là cố vấn khi cần thiết, vừa là người phân phát đồ từ thiện, lại vừa là chủ nhân và nguồn tin tức về thế giới bên ngoài. Trong những tháng mùa Đông, chính linh mục chánh xứ là người cung cấp những bước căn bản của giáo dục, mặc dù có lẽ có chừng một trong mười người nam và một trong 50 phụ nữ có thể đọc được Thánh Kinh. Tại những khu vực dân cư sống rải rác như những vùng của Massif Central hay miền Tây, chính buổi tham dự thánh lễ Chủ Nhật là nơi mà cư dân ở những nông trại xa xôi và các thôn xóm có cảm giác của một cộng đồng. Tại miền Tây,  việc giáo dân cùng giáo sĩ quyết định toàn bộ các vấn đề địa phương sau Thánh Lễ  có thể được diễn tả như một loại chính trị thần quyền nho nhỏ. Tuy nhiên, ngay cả nơi này, nền giáo dục vẫn chỉ có tầm quan trọng bên lề:  tại giáo xứ miền Tây Lucs-Vendée rất sùng đạo, chỉ có 21% chú rể có thể ký tên được vào tờ hôn thú và chỉ có 1.5% được coi là có chút chữ nghĩa. Hầu hết cư dân Paris ít ra có thể biết đọc, nhưng dân miền quê thì thực sự là một xã hội chỉ biết nói.

Giáo hội Công Giáo hưởng thụ một sự độc quyền mục vụ thờ phượng công cộng, cho dù  trên lãnh vực địa lý có những cộng đồng Do Thái khoảng chừng 40,000 người vẫn bảo tồn một ý nghĩa về căn cước mạnh mẽ riêng biệt tại Bordeaux, Comtat-Venassin và Alsace, cũng như khoảng 700,000 tín hữu Tin Lành trong nhiều khu vực ở miền Đông và vùng Massif Central. Những ký ức về các cuộc thánh chiến và sự bất bao dung theo sau sự huỷ bỏ sắc lệnh Nantes 1685 vẫn tồn tại đầy uy lực: người dân  xứ Pont-de-Monvert ở trong vùng đất trung tâm Tin Lành  Camisard nổi dậy vào năm 1700 đã có một đội quân và một lãnh chúa Công Giáo để nhắc nhở họ hàng ngày về sự áp bức của họ. Tuy nhiên, trong khi 97% dân Pháp trên danh nghĩa là Công Giáo, các mức độ thực thi tôn giáo ngoại hàm (sự quan sát bề ngoài về việc thực hành tôn giáo như việc tham dự lễ Phục Sinh) và yếu tố  nội tâm (sự quan trọng trong việc cá nhân tuân theo các lời truền dạy) lại thay đổi đa dạng trong cả nước. Dĩ nhiên, nội dung của tâm linh thì phần lớn vượt ra khỏi tầm vói của các nhà sử học, tuy nhiên, sự thái hoá niềm tin tại một số khu vực, ít nhất người ta có thể cảm nhận qua  sự gia tăng số lượng các cô dâu có thai trước đám cưới (từ 6.2% lên 10.1% trong cả nước) và sự suy giảm của việc đào tạo linh mục (số lượng tuyển mộ người mới giảm  23% trong khoảng 1749-1789).

Lý thuyết Công Giáo mạnh mẽ nhất ở miền Tây và vùng Brittany, dọc theo rặng núi Pyrénées và phía Nam vùng Massif Central, những khu vực có đặc tính tuyển mộ mạnh mẽ hàng giáo sĩ từ các cậu bé trai ở trong các gia đình địa phương hội nhập cao vào cộng đồng và nền văn hoá của họ. Hơn nữa, cũng tại miền Tây này, lợi tức hàng năm của giáo sĩ cao hơn nhiều so với đồng lương tối thiểu quy định. Đây là một trong một số nhỏ phần đất của quốc gia nơi lệ phí thu góp được trả cho cấp giáo sĩ địa phương hơn là thu góp bởi giáo phận, từ đó tạo sự dễ dàng cho các linh mục để quản lý những nhu cầu của giáo xứ. Khắp mọi nơi, những tín hữu trong giáo xứ ngoan đạo nhất  thường là người già cả, phụ nữ và quê mùa chất phác. Khoa thần học mà họ được trình bày đánh dấu bằng sự nghi ngờ của Công Đồng Trent về những khoái lạc trần tục, bằng sự nhấn mạnh vào uy quyền của giáo sĩ và bằng sự tưởng tượng mạnh mẽ về những sự trừng phạt đang chờ đón những kẻ tội lỗi sau khi họ qua đời. Yves-Mitchel Marchais, linh mục chính xứ của giáo xứ mộ đạo Lachapelle-du-Gênet ở miền Tây đã thuyết giảng rằng: “Mọi thứ được coi là một hành vi không trong sạch hay một hành động xác thịt bất chính, khi  một người tự nguyện thực thi, là một tội lỗi nội tại và hầu như là một tội lỗi đáng chết và với kết quả  sẽ bị khai trừ khỏi nước Trời.” Một khi bị loại trừ, những kẻ phạm tội sẽ chịu những trừng phạt đang chờ đợi họ:

Đói khát, chiến tranh, ngập lụt, hoả hoạn cùng đủ các bệnh tật đau răng, nhức mỏi tay chân, động kinh co giật, sốt cao... cùng đủ thứ tra tấn mà các liệt sĩ đã từng trải qua như gươm chém, bừa cào, thú dữ cắn xé hay vạc dầu  sôi lửa bỏng…”

Những vị trí quyền cao chức trọng trong giáo hội Công Giáo thường do tầng lớp thứ hai hay còn gọi là giai cấp quý tộc bá chủ. Các sử gia chưa bao giờ đồng ý nhau về số lượng quý tộc vào thế kỷ 18, một phần vì con số thường dân tuyên bố có thân thế quý tộc trong một cố gắng đạt được các vị trí, tiêu chuẩn và chỗ đứng mà chúng vượt quá tầm tay nếu chỉ giàu có mà thôi. Những đánh giá mới đây gợi ý rằng có lẽ không có quá 25,000 gia đình thuộc giới quý tộc hay khoảng chừng 125,000 cá nhân là quý tộc, chiếm tỷ lệ 0.4% dân số.

Như một trật tự, giới quý tộc nắm giữ nhiều nguồn tài sản tập đoàn và quyền lực, như  có các đặc quyền về tài chánh và thế lực, thân thế đi đôi với biểu hiệu của sự cao quý và  công việc ngoại hạng ở trong  số các vị trí chính thức. Tuy nhiên, cũng giống như tầng lớp thứ nhất, giới quý tộc cũng có tính chất nội bộ rất đa dạng. Những nhà quý tộc tỉnh lỵ nghèo nhất ở các cơ sở vùng quê có rất ít điểm chung với hàng ngàn quan lại tại Versailles hay các quan tòa ở các toà án tối cao hay các vị trí hành chánh cao cấp, mặc dù cái thân thế quý tộc của họ thường lâu đời hơn những người bỏ tài sản để mua danh vị hay những người được trao tặng tước vị cho công việc hành chánh của họ. Đưa con trai vào học viện quân sự và sự hứa hẹn về một nghề nghiệp  trở thành một viên sĩ quan là một trong những phương cách được ưa thích  để giới quý tộc tỉnh lỵ duy trì được tước vị và một sự bảo đảm kinh tế. Sự có chân trong hàng ngũ quân đội của họ được củng cố nhờ sắc lệnh Ségur ban hành 1781  đòi hỏi các sĩ quan quân đội phải có thân thế của một  người có 4 thế hệ thuộc dòng quý tộc. Riêng trong phạm vi giới đại quý tộc, các giới hạn về gia đình và tài sản còn phân chia hơn nữa từ những thứ bậc nội tại và các đặc quyền khác nhau. Thí dụ: sự phân biệt giữa những người được hiện diện chính thức tại triều đình, những người được phép ngồi trên chiếc ghế cạnh chân khi hoàng hậu có mặt và những người được phép đi trên xe kiệu của bà. Tuy nhiên, tất cả giới quý tộc có một đặc điểm chung là cùng được cấp phát một lợi tức trong một hệ thống vô cùng phức tạp về thân phận và phẩm trật mang đến cho họ những ưu tiên vật chất và tiếng tăm.

Hầu hết các quý tộc có được phần tài sản đáng kể của họ từ đất đai. Trong khi tầng lớp thứ hai này sở hữu hoàn toàn tới một phần ba đất đai của cả nước, họ lại còn xử dụng quyền thế của họ vào phần đất còn lại. Điều quan trọng nhất của những quyền thế này là việc đều đặn thu tô mùa màng trên các vụ mùa chính trên mọi vùng đất thuộc quyền lãnh chúa của họ. Món thu tô này du di  giữa một phần sáu đến một phần mười hai mùa màng, nhưng cũng lên đến một phần tư tại một vài  vùng ở Brittany và trung tâm nước Pháp. Nó lại còn được những quyền lợi đáng kể khác hỗ trợ chẳng hạn như sự độc quyền về lò nấu rượu của làng, về các máy ép dầu ô liu và các nhà máy, lệ phí tài chánh trong việc chuyển nhượng đất đai và ngay cả trong các hôn lễ, đồng thời có quyền đòi hỏi các lao động không công từ phía cộng đồng  trên vùng đất riêng tư của họ vào thời vụ. Người ta đánh giá rằng trị giá của những loại tô phí đó lên tới 70% lợi tức của một quý tộc tại vùng Rouergue nơi lãnh chúa thu tô tới một phần tư sản phẩm của nông dân làm ra, trong khi đó vùng Laugarais lân cận phía Nam chỉ thấp khoảng 8%.

Sự giải quyết về cái nghịch lý là làm sao một xã hội dân quê có thể chịu nổi quá nhiều thành phố tỉnh lỵ trọng yếu như thế nằm trong cách vận hành của các trung tâm vùng miền ở thế kỷ 18 này. Trong một ý nghĩa quan trọng, các thị trấn nội địa phụ thuộc vào miền quê : tất cả các loại thuế má thu tô lệ phí do thành phần cao cấp của 2 tầng lớp ở trên  của nhà nước thu góp được chi tiêu vào các trung tâm thành phố. Thí dụ: giáo phận Cambrai  tạo được của cải từ những tài sản của họ tại các làng mạc như Montigny, nơi họ sở hữu 46% toàn thể khu vực vào năm 1754. Họ cũng là vị trưởng lão của làng, mặc dù đây là khu vực mà chế độ phong kiến vua chúa tương đối khá nhẹ nhàng.

Người dân quê sinh ra trong một thế giới được đánh dấu bởi những tuyên bố về nguồn gốc chủ quyền và thân phận. Khắp mọi nơi, thánh đường giáo xứ và các lâu đài làm bá chủ môi trường xây dựng và nhắc nhở nhiệm vụ lao động và sự khiêm tốn của người dân thường. Trong khi các lãnh chúa ít cư ngụ trong lâu đài quê của họ trong những năm 1780s hơn thời gian trước đó, họ tiếp tục thực thi một lô những đặc quyền áp đặt lên vị trí phụ thuộc của cộng đồng, như dành riêng hàng ghế đầu trong nhà thờ, được mang vũ khí ra nơi công cộng hay chỉ định các viên chức trong làng.
Chúng ta không thể biết về đánh giá sự tôn kính mà họ kiên quyết đòi hỏi có là một sự thừa nhận thành thật đối với sự cao sang của họ không, tuy nhiên , một điều chắc chắn là đã có những khoảnh khắc mà sự hận thù  của dân quê đã làm cho nhiều thành viên quý tộc tuyệt vọng. Thí dụ tại Provence, cộng đồng dân địa phương được yêu cầu  phải ngưng các lễ hội công cộng trong một năm để tỏ lòng kính trọng đối với một thành viên trong một gia đình quý tộc mới qua đời. Tại đây, trong ngày lễ thánh bổn mạng của làng Sausses vào năm 1768, một nhà quý tộc tang gia phàn nàn rằng: “ người ta đánh trống, bắn súng và nhảy múa suốt ngày đêm với muôn sắc màu và đầy tự cao.”

Nước Pháp thế kỷ 18 là một xã hội tập đoàn trong đó đặc quyền là phần thiết yếu đối với thứ bậc xã hội, sự giàu có và thân thế cá nhân. Có nghĩa là con người là thành viên của những trật tự xã hội phát sinh từ một khái niệm thời trung cổ về một thế giới nơi người ta có nhiệm vụ phải cầu nguyện, chiến đấu và làm việc. Đây là một tầm nhìn cố định hay bất di bất dịch của cái trật tự xã hội mà nó không đi song hành với những đo lường khác về giá trị con người chẳng hạn như sự giàu có. Tầng lớp lao động (tầng lớp thứ ba) chiếm tới 99% dân số, bao gồm tất  cả các thường dân từ đám ăn xin đến những thương gia giàu có. Hai tầng lớp đầu liên kết trong nội bộ với nhau bởi những đặc quyền mà tầng lớp họ được hưởng và bởi cái ảo tưởng của họ về thân thế và nhiệm vụ xã hội của họ. Tuy nhiên, trong nội bộ của chính họ cũng phân chia bởi những sự khác nhau về thân thế và mức độ giàu có. Đặc biệt, bất kể là pháp luật, tài chánh, nghề nghiệp hay vùng miền, đỉnh cao của mọi hình thức đặc quyền luôn luôn dành cho thành phần ưu tú nhất của quý tộc thuộc  hai tầng lớp trên. Những gia đình quý tộc cổ xưa và vô cùng giàu có này ở trên đỉnh cao quyền lực chia xẻ một quan niệm về uy thế chính trị và xã hội mà họ diễn tả bằng sự công khai phô trương qua y phục họ mặc, nơi ăn chốn ở và lối tiêu xài xa xỉ của họ.

Hai tầng lớp đầu này là những tập đoàn có đặc quyền đặc lợi. Nghĩa là vương triều đã công nhận thân thế ưu tiên của họ từ lâu qua những luật lệ ban cho thành viên của họ và qua việc miễn trừ thuế khoá.  Giáo Hội chỉ phải trả một phần đóng góp tự nguyện cho quốc gia qua quyết định của hội đồng quản trị của chính họ, luôn luôn không quá 3% lợi tức của họ. Giới quý tộc thường được miễn trừ đóng thuế trực tiếp, ngoại trừ phần phụ thu khiêm nhường một phần hai mươi áp đặt năm 1749. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa những tầng lớp có đặc quyền và hoàng gia, một trụ cột thứ ba của đất nước Pháp được đặt căn bản trên sự phụ thuộc hỗ tương và  qua thương lượng. Nhà vua là người đứng đầu giáo hội Gaulois (Pháp cổ), một giáo hội có một số giới hạn  về tự trị nào đó đối với toà thánh La Mã, nhưng đổi lại, giáo hội Pháp lại phụ thuộc vào thiện chí của  nhân thân Giáo hội để duy trì tính chính danh của chế độ quân chủ của mình. Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo thụ hưởng một sự độc quyền về việc thờ phượng nơi công cộng và các luật lệ về luân lý đạo đức. Tương tự, để có được sự tuân thủ và lòng tôn kính của giới quý tộc, nhà vua chấp nhận rằng họ phải được đặt lên vị trí cao nhất của mọi cơ quan, từ Giáo hội cho đến các lực lượng vũ trang, từ ngành tư pháp cho đến hành pháp của nhà vua. Jacques Neckers, một chủ ngân hàng và là bộ trưởng tài chánh 1777-1781 và chủ tịch hội đồng bộ trưởng từ 1788 của vua Louis XVI là người duy nhất không thuộc giới quý tộc trong thành phần nội các của ông.

Nơi cư trú của nhà vua tại cung điện Versailles là nơi phát ngôn uy lực áp chế nhất của nước Pháp trong thế kỷ 18. Tuy nhiên, văn phòng làm việc của nhà vua vừa có kích thước nhỏ vừa có những nhiệm vụ giới hạn trong các mệnh lệnh nội bộ, về chính sách ngoại giao và thương mại. Chỉ có 6 bộ có tên chính thức và 3 trong số được chia cho bộ ngoại giao, bộ chiến tranh và bộ Hải Quân. 3 cái khác liên quan tới tài chánh, tư pháp và quản lý hoàng gia. Đa số việc thu thuế được phân chia cho thành phần nông gia tư nhân. Điều quan trọng nhất, mọi khía cạnh của những cơ cấu trong đời sống công cộng, trong quản trị hành chánh, thuế quan và các cách đo đạc, luật lệ, thuế má và cả Giáo Hội đều mang dấu ấn của đặc quyền và sự phát triển lịch sử trong suốt 7 thế kỷ bành trướng lãnh thổ dưới sự cầm quyền của nhà vua. Cái giá mà vương triều đã phải trả để bành trướng đất đai từ thế kỷ 11 là để được công nhận các quyền lợi và đặc quyền tại các khu vực mới chiếm được. Quả thật, vương quốc Pháp bao gồm một vùng đất rộng lớn Avignon và the Comtat-Venaissin nơi đã từng liên  tục trực thuộc Giáo Hoàng  kể từ những ngày Toà Thánh lưu vong tại đó vào thế kỷ 14.

Loại hiến pháp mà vua nước Pháp dùng quản trị đất nước thuộc loại tục lệ bất thành văn. Điều thiết yếu của nó là Louis là vua nước Pháp nhờ ân sủng của Thượng Đế và nhà vua chỉ có trách nhiệm trước mặt Thượng Đế  đối với sự an nguy của thần dân của vua. Dòng giõi hoàng gia là dòng giõi Công Giáo và sẽ chỉ truyền ngôi cho người con trai trưởng (gọi là luật Salic). Nhà vua đứng đầu cơ quan hành chánh và toàn quyền bổ nhiệm các bộ trưởng, các nhà ngoại giao và các viên chức chính quyền cao cấp, đồng thời giữ quyền tuyên chiến  và nghị hoà. Tuy nhiên vì toà tối cao hay quốc hội viện có nhiệm vụ ghi nhận đăng ký các sắc lệnh của vua, càng ngày họ càng chiếm lấy nhiều quyền hạn hơn cái họ được ban cấp cho công việc đúng theo tư pháp. Hơn thế, viện quốc hội đã nhất quyết rằng những ‘phản biện dè dặt’ của họ cũng nhằm bảo vệ thần dân chống lại những vi phạm về các quyền hạn và đặc quyền của họ trừ khi nhà vua lựa chọn xử dụng một điều lệnh tư  pháp để áp đặt ý nguyện của vua.

Các thoả hiệp có tính cách lịch sử mà các triều đại nước Pháp đã phải ký kết để bảo đảm sự chấp nhận của những vùng đất mới thu đạt được trong nhiều thế kỷ đã được biểu lộ qua những giàn xếp hệ thống thuế khoá rất phức tạp trên toàn lãnh thổ. Loại thuế trực tiếp chính thức, gọi là thuế thân, khác nhau giữa các vùng miền và các thành phố đã hoàn toàn mua chuộc được họ. Thuế gián tiếp, một loại thuế muối, thay đổi từ 60 đồng livres đến chỉ khoảng 1 livre và 10 xu trên 72 lít  muối. Olwen Hufton đã diễn tả về từng đoàn phụ nữ giả mang thai để mang lậu muối từ Brirtany, một nơi chịu thuế thấp nhất qua phiá Đông đến những vùng thuế cao để hưởng lợi từ cách buôn bán gian lận thuế má trong loại hàng nhu yếu này.

Trong vấn đề hành chánh cũng vậy, điểm chính yếu là ngoại trừ và miễn trừ. 58 tỉnh miền của nước Pháp thế kỷ 18 được chia thành nhóm với mục đích quản trị thành 33 tổng khu.. Những đơn vị tổng khu này vô cùng khác biệt nhau về kích thước và hiếm khi trùng hợp với các lãnh địa của giáo phận tôn giáo. Hơn nữa, quyền thế của các vị đại quan của vua lại có thể thay đổi một cách đáng kể. Một số vùng tổng khu, được coi như tiểu bang như Brittany, Languedoc và Burgundy đã tuyên bố một số hình thức tự trị, thí dụ như tự trị trong sự phân phối thuế khóa mà những vùng miền khác không có được. Các giáo phận tôn giáo cũng được sắp xếp theo kích thước và sự giàu có từ tổng giáo phận Paris tới những toà giám mục nghèo nàn với những ngôi thánh đường bé nhỏ do kết quả của những đồng thuận chính trị trong những thế kỷ trước, đặc biệt tại miền Nam với sự lưu vong của Giáo Hoàng tới Avignon vào thế kỷ 14.

Bản đồ hành chánh nước Pháp và các biên giới của giáo phận tôn giáo đã không trùng hợp với phán quyết của toà tối cao. Quốc hội viện Paris thi hành quyền lực trên một nửa đất nước, trong khi hội đồng chủ quyền Arras chỉ có một quyền tự quyết địa phương nhỏ nhoi. Nói chung, trung tâm hành chánh, tổng giáo phận và cơ quan tư pháp thủ đô đặt bản doanh ở những thành phố khác nhau trong cùng một khu vực. Hơn nữa, vượt qua những biên giới này còn là một sự phân chia cổ xưa giữa các vùng theo luật La Mã thành văn ở phía Nam và các vùng theo tập quán bất thành văn ở phía Bắc. Bên cạnh  sự phân chia này lại còn hàng chục luật lệ địa phương và dĩ nhiên, hàng giáo sĩ và giới quý tộc  cũng có những luật lệ riêng biệt của họ nữa.

Những người có liên quan đến thương mại và nghề nghiệp chuyên môn lại phàn nàn về những khó khăn gây ra cho công việc của họ bởi sự phức tạp của hệ thống luật lệ trên. Thêm chướng ngại nữa  đến từ quá nhiều các hệ thống tiền tệ, cân đo đong đếm khác nhau. Không có một tiêu chuẩn thống nhất trong sự đo lường về kích thước và khối lượng cho cả nước. Quý tộc và các thành phố tự ấn định mức thuế cho phí qua trạm khi người ta chuyên chở sản phẩm qua sông, Vào năm 1664, đa số miền Bắc nước Pháp đã tạo nên một liên hiệp thuế quan, nhưng đã có những nhà thuế quan giữa họ và phần còn lại của quốc gia, mặc dù không phải lúc nào cũng giữa biên giới của các vùng và phần còn lại của Âu Châu. Những vùng miền phía Đông thường dễ dàng trao đổi buôn bán với nước Phổ hơn là với Paris.

Mọi lãnh vực của cuộc sống công cộng của nước Pháp thế kỷ 18 được biểu hiện qua sự đa dạng vùng miền và chính sách miễn trừ cùng sức mạnh bền bỉ của các nền văn hoá địa phương. Các cơ cấu vương triều và quyền thế tập thể của giáo hội và giới quý tộc càng thêm phức tạp vì những thực thi kiểu địa phương, những miễn trừ và sự trung thành.  Vùng Corbières của xứ Languedoc đã cho một ví dụ về sự phức tạp của cơ cấu và những giới hạn về việc kiểm soát mà vương triều gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Đây là một khu vực mà 129 giáo xứ của nó nói tiếng Occitan ngoại trừ 3 ngôi làng Catalan ở vùng biên giới phía Nam của vùng. Dù vậy khu vực vẫn bị phân chia trong các lãnh vực hành chánh, tôn giáo, tư pháp và các mục tiêu thuế khóa giữa các văn phòng tại Carcassonne, Narbonne, Limoux và Perpignan.  Biên giới của những cơ sở này lại không lâu bền: thí dụ, có những ngôi làng lân cận nhau do Perpignan quản trị hành chánh, nhưng lại trực thuộc các giáo phận khác nhau.  Trong suốt vùng Corbières, có tới mười cách đo lường khối lượng khác nhau khi dùng căn bản setier (một setier khoảng 85 lít) và không dưới 50 cách đo lường diện tích khác nhau: một sétérée (sétérée = sào?) thay đổi từ bằng 0,16 mẫu ở vùng bình nguyên lên tới 0.51 mẫu ở những vùng cao.

Voltaire và một số nhà cải tổ khác đã vận động chống lại cái mà họ gọi là sự bất bao dung và sự tàn ác của hệ thống tư pháp, khét tiếng nhất với trường hợp tra tấn và hành quyết Jean Calas, một tín đồ Tin Lành ở Toulouse năm 1762, người bị kết án cố ý giết con trai của mình để ngăn đứa con trở lại đạo Công Giáo. Những sự trừng phạt mà Voltaire và những người khác lên án là sự biểu lộ về một nhu cầu của chế độ dùng để từ từ nắm lấy sự kiểm soát một vương quốc rộng lớn và rất đa dạng qua sự hù doạ và gây sợ hãi. Các màn trừng phạt thể chất thường rất nghiêm khắc và nổi bật. Vào năm 1783, một thầy tu hoàn tục Capucin bị tố cáo sách nhiễu tình dục một cậu con trai và đâm chém nạn nhân 17 lần đã bị tra tấn trên bánh xe quay và thiêu sống tại Paris. Hai kẻ ăn mày ở Auvergne cũng bị tra khảo trên bánh xe quay vào năm 1778 vì tội danh dùng gươm và súng hăm doạ một nạn nhân của họ. Nói chung, 19% các vụ xử trước toà án tiên khởi tại Toulouse giữa khoảng 1773 – 1790 đưa đến việc hành quyết tại công cộng (đến năm 1783 tăng lên tới 30.7%) và một con số tương đương lãnh án chung thân tại các nhà tù.

Tuy nhiên, theo hầu hết các người đương thời, vương triều của Louis XVI dường như là một triều đại ổn định và quyền lực nhất trong các chế độ. Trong khi sự chống đối mang tính địa phương, cho dù là các bạo loạn về vấn đề thực phẩm hay những  than phiền về những cao ngạo của thành phần được ưu tiên, chúng vẫn hầu như luôn nằm trong giới hạn  của hệ thống, đó là chống lại những đe doạ đối với những  cách lý tưởng hoá  mà trong đó người ta  tin rằng hệ thống một thời đã từng có hiệu quả.  Quả thực, trong suốt thời kỳ bất ổn sâu rộng những năm trước 1789 của cuộc chiến “bột mì” ở miền Bắc nước Pháp 1775, những người nổi loạn đã hô to rằng họ nhân danh nhà vua đòi hạ thấp giá bánh mì ở mức giá theo truyền thống là 2 xu một cân Anh, một sự thừa nhận ngầm về trách nhiệm của vua trước mặt Thượng Đế về sự an sinh của thần dân của nhà vua. Tuy nhiên, vào những năm 1780s, một loại các thay đổi lâu dài trong xã hội Pháp đặt cơ bản trên quyền ưu tiên và các tập đoàn. Những khó khăn về tài chánh càng thử thách thêm khả năng của thành phần ưu tú để đối phó với những thiết yếu của sự thay đổi.  Một khủng hoảng chính trị bất ngờ rất có thể sẽ làm cho những căng thẳng và vấn nạn đó hiện lên thật rõ nét.

Cuộc Cách Mạng Pháp 1789-1799

                                                             by Peter McPhee

Chương 2:Cuộc khủng hoảng của chế độ cũ


Các nhà viết sử từ lâu vẫn tranh cãi về việc liệu giới tư sản thế kỷ 18 có là một giai cấp có kiến thức không: nghĩa là liệu Cách Mạng Pháp có phải là công trình của giới tiểu tư sản quyết tâm lật đổ các tầng lớp có ưu tiên và vì thế đã làm gia tăng tốc độ chuyển hoá từ thời phong kiến sang thời kỳ tư bản cùng song hành với sự phát triển mang tính lịch sử của mô hình Mác xít chăng?  Những thời kỳ của sự tranh cãi này thường được phân chia thành những kỳ hạn đơn giản, như về việc liệu những người giàu có nhất trong giới tư sản có hội nhập vào thành phần cai trị ưu tú không? Giả dụ họ có tham gia, liệu có thể  cho rằng xã hội sẽ không có cuộc khủng hoảng dài hạn và quá sâu đậm , và như thế cuộc Cách Mạng Pháp rất có thể  sẽ rất ngắn ngủi và  bởi thế sẽ chỉ có những hậu quả tương đối không quan trọng lắm?  Có chứng cớ chắc chắn cho sự biện giải này. Cá nhân các quý tộc đóng vai trò tích cực trong sự thay đổi về nông nghiệp và hầm mỏ, đôi khi ngược lại với thanh danh của họ, và các vị vua phong cấp quý tộc cho những cá nhân là những nhà sản xuất và thương mại thành công nhất, chẳng hạn như Christophe-Philippe Oberkampf một di dân gốc Bavarian đã thiết lập một nhà máy in vải sợi tại Jouv gần Versailles.  Trong số những đối tượng thuộc giới tư sản được chọn lựa nhất có vào khoảng 70,000 viên chức dễ bị mua chuộc, tăng lên cao tới khoảng 3700 giới quý tộc được ban cấp từ xuất thân của họ.  Một số những tay tư sản trẻ đầy tham vọng này là những người khác biệt rõ nhất trong việc khởi xướng quân sự chống lại giới quý tộc sau năm 1789, có lúc họ đã mong ước có thêm tên đệm quý tộc ở trước hay sau cái tên thường dân của họ, chẳng hạn như: De Robespierres, Brissot de Warville hay d’Anton. Đó cũng là trường hợp của các nhóm chuyên gia đa dạng làm thành giới tư sản mà họ đã không coi mình như thành viên của một “giai cấp” liên kết với nhau trên cả nước qua những vai trò kinh tế xã hội và lợi tức tương tự.
Tuy nhiên, có lẽ sẽ hữu hiệu hơn để hiểu về đám ưu tú của thành phần tư sản  vừa tim cách chen chân vào thế giới quý tộc trong khi đồng thời đã vô tình lật đổ thế giới ấy. Các tay tư sản giàu có nhất tìm cách mua tước vị và văn phòng quý tộc vì điều đó mang lại cho họ thêm giàu có và thần thế trong xã hội. Đây là một sự đáng kinh ngạc, bởi họ đã cố bước vào một thế giới mà họ không bao giờ nghĩ là nó sẽ có ngày bị tan rã.  Chẳng hạn như Claude Pèriez, một chủ nhân của cơ xưởng sản xuất sợi vải ở Greneble và có một trang trại làm đường ở St-Domingue đã trả tới một triệu livres để mua nhiều lãnh địa và một lâu đài vĩ đại ở Vizille vào năm 1780, nơi ông ta xây dựng nhà máy vải sợi. Lợi tức của các lãnh địa của ông ta, khoảng 37,000 livres mỗi năm gần như tương đương với cái ộng ta hy vọng có được nếu ông đầu tư vào những thứ khác. Tuy nhiên, ngay cả khi những người làm tốt trong số các tư sản gắn chặt hy vọng và may mắn của họ trong việc chen chân vào giới quý tộc thì họ vẫn là những kẻ “bên lề”, không phải  chỉ vì những lời tuyên bố  thuộc hàng “cao quý” của họ đặt cơ bản trên những  những nền tảng thành tựu khác nhau, mà còn vì những thành công của họ có tính chất đả phá cái lý do để trở thành thân phận quý tộc. Đối lại, đám quý tộc tranh đua với giới tư sản  bằng cách ra vẻ “cấp tiến”, thí dụ như  tham gia vào một hội “những người tự do”, làm giảm bớt cái độc quyền của tầng lớp họ.
Những nhà viết sử khác lại tránh xa những câu hỏi về nguồn gốc kinh tế và xã hội của cuộc Cách Mạng nhưng không hiệu quả và không tồn tại, và xác quyết rằng nguồn gốc và bản chất của cuộc Cách Mạng, tốt nhất nên được thẩm định qua một sự phân tích văn hoá chính trị, theo ý của Lynn Hunt là vai trò của các biểu hiệu, ngôn ngữ và nghi thức trong sự phát minh và truyền đạt hành động cách mạng. Quả thực, một số sử gia đã tranh luận về khả năng áp dụng các thuật ngữ như “giai cấp” và “ý thức giai cấp” vào nước Pháp thế kỷ 18. David Garrioch khởi sự phần nghiên cứu của ông về sự cấu thành giới tư sản Paris qua lời tuyên bố không hề có giai cấp tư sản tại Pháp thế kỷ 18, nghĩa là, các nhà tư sản đơn lẻ không tự coi mình là một phần của một giai cấp có tương tự lợi ích và thể diện. Các bộ tự điển ở thời điểm đó đã định nghĩa những nhà tư sản bởi vì họ không phải là quý tộc hay thường dân, hay đơn giản dùng từ ngữ “tư sản” như một thuật ngữ phỉ báng khinh rẻ.
Tuy nhiên, như Sarah Maza trình bày, điều này không có ý nói là không có sự phê phán giới quý tộc. Ngược lại, những trường hợp nổi bật mà bà nghiên cứu qua việc xuất bản những ca xử ngắn hạn có ấn bản lên tới 20,000 bản vào những năm 1780s chứng tỏ rằng có một sự phủ nhận mạnh mẽ và bền bỉ về một thế giới quý tộc truyền thống được phác hoạ như  là thành phần bạo động, phong kiến, vô đạo đức và như chống đối lại các giá trị của quyền công dân, sự hợp lý và các lợi ích. Trong một thế giới hậu bán thế kỷ 18 ngày càng thương mại hoá, các nhà quý tộc đã tranh luận rằng có nên xoá bỏ các luật lệ về sự chê bai để cho phép các nhà quý tộc tham gia vào hoạt động buôn bán để làm sống lại các tiện ích của giới quý tộc trong mắt người dân thường hay không.  Cái mà ý tưởng này đề nghị là, trong khi không có một tầng lớp tư sản có kiến thức với một chương trình chính trị, chắc chắn có một sự phê phán mạnh mẽ về những tầng lớp có đặc quyền và về những đòi hỏi bị coi là lỗi thời đối với trật tự  và nhiệm vụ xã hội mà họ dựa dẫm.
Nếu những thay đổi là rõ ràng trong một lối tranh luận công cộng được bày tỏ vào những năm trước 1789, điều này có thể không mang nhiều ý nghĩa nào đó cho chúng ta biết về những thay đổi to tát hơn trong xã hội nước Pháp chăng? Hầu hết các nhà viết sử mới đây đã quay về nghiên cứu điều mà họ gọi là “ nền văn hoá vật chất” của nước Pháp thế kỷ 18, đó là những đối tượng vật chất và những thực thi của đời sống kinh tế. Họ không làm điều này để lập lại  cái nhận thức Mác Xít cũ rich về đời sống trí tuệ và văn hoá như những “phản chiếu” của cấu trúc kinh tế. Đúng hơn, họ mong muốn hiểu biết về ý nghĩa mà con người trong thời đại đó bày tỏ với thế giới của họ qua cách hành xử cũng như  câu chữ. Từ đó, dường như rõ ràng là có những sự thay đổi liên quan với nhau từ kinh tế, xã hội và văn hoá, đã làm giảm thiểu những nền móng của quyền lực chính trị và xã hội vào hậu bán thế kỷ 18. Sự bành trướng giới hạn nhưng  rất hiển nhiên  của doanh nghiệp tư bản trong kỹ nghệ, nông nghiệp ở trong vùng nội địa Paris, và trên hết là các  ngành thương mại, nối kết với ngành mậu dịch thuộc địa đã phát sinh ra những hình thức làm giàu và những giá trị không cân đối với những điều căn bản cơ cấu của chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối, một xã hội trật tự của sự ưu thế tập đoàn và những yêu sách về chủ quyền của giới quý tộc và của Giáo Hội. Colin Jones đã đánh giá rằng số lượng giới tư sản gia tăng từ khoảng 700,000 trong năm 1700 lên tới chừng 2.3 triệu năm 1780. Ngay cả trong số những tiểu tư sản, một nền văn hoá tiêu thụ khác biệt cũng phát đạt, nhìn thấy rõ ràng trong các bàn giấy, gương lược, đồng hồ và ô dù. Những thập niên sau năm 1750 là thời điểm của một “cuộc cách mạng trang phục”, theo ý của Daniel Roche, trong đó các giá trị của sự kính trọng,  tư cách và tài sản vững chắc được diễn tả qua quần áo ăn mặc trong tất cả các nhóm xã hội, nhưng đặc biệt là trong tầng lớp trung lưu. Giới tư sản cũng tự tạo khác biệt với giới quý tộc và thợ thủ công qua lối ăn uống kiểu  tư sản của họ với những bữa ăn  nhỏ nhưng thường xuyên hơn và qua sự đơn giản các hành vi riêng tư về nhà cửa và cách hành xử.
Jones đã nghiên cứu nhiều biểu hiện của những giá trị thay đổi này từ trong các tạp chí của thời điểm đó. Vào những năm 1780s, tờ Journal de Santé và những tờ báo không định kỳ chú trọng đến sức khoẻ và vệ sinh được tung ra, kêu gọi những  chương trình hoạch định làm sạch đường phố và không gian: đó là việc cho rằng sự pha trộn giữa mồ hôi và nước hoa mà bọn quan lại đội tóc giả trong triều thì cũng không thể dung thứ được như mùi hôi thúi của đám dân nghèo đô thị với sự tin tưởng vào giá trị chữa bịnh của bụi đất và nước tiểu. Những tiêu đề của tờ  tin tức được biết đến như  tờ báo tường (áp phích) được xuất bản trong 44 thị trấn và có tới 200,000 người đọc dễ dàng nhận ra  họ trở nên “yêu nước” hơn. Điều này thay đổi từ việc gia tăng xử dụng các từ ngữ như “ý kiến công chúng, công dân và quốc gia” trong các bình luận chính trị tới việc quảng cáo trên tờ báo tường của Toulouse vào tháng 12 năm 1788 như: “những viên kẹo trị ho có chất ái quốc cho lợi ích công”.
Trùng hợp với sự sự nối khớp về những giá trị như vậy với sự thay đổi kinh tế từ từ, lâu dài và không đồng đều là một loạt những thách đố về trí tuệ để tạo thành những hình thức chính trị và tôn giáo mà các nhà viết sử gọi là “sự khai sáng.” Liên hệ giữa thay đổi kinh tế và đời sống trí tuệ lại ở ngay tâm điểm của lịch sử xã hội về các tư tưởng, và các lý thuyết gia xã hội và các nhà sử học tiếp tục chia rẽ về tính chất của cái liên hệ đó. Các nhà sử học, đặc biệt các sử gia Mác Xít cho rằng nguồn gốc của cuộc Cách Mạng gắn bó chặt chẽ với sự thay đổi kinh tế căn bản, đã từ lâu hiểu về sự khai sáng như một biểu hiệu của một xã hội trong cơn khủng hoảng, như là biểu cảm của những giá trị và những bất mãn của tầng lớp trung lưu. Vì vậy, Albert Soboul đã viết vào năm 1962 rằng: “sự khai sáng quả thực là học thuyết của giới tư sản.”
Nền tảng kinh tế của xã hội đang thay đổi và vì vậy các học thuyết cũng được  sửa đổi theo. Nguồn gốc trí thức của cuộc Cách Mạng được tìm thấy trong những tư tưởng triết học mà tầng lớp trung lưu đã bày tỏ từ thế kỷ 17. Ý thức giai cấp của họ được củng cố thêm nhờ thái độ độc quyền của giới quý tộc và bởi sự đối nghịch giữa sự tiến bộ của họ về kinh tế và các vấn đề trí năng và sự thái hoá của họ trong lãnh vực trách nhiệm dân sự.
Một quan điểm về sự khai sáng như trên cũng được những nhà sử học khác phản biện khi họ nhắm  tới cái lợi ích của nhiều nhà quý tộc có được trong một triết lý mới. Hơn nữa, trong khi thế hệ các sử gia trí tuệ già hơn có khuynh hướng nhìn lại từ cuộc Cách Mạng đến những tư tưởng dường như gây cảm hứng cho nó, chẳng hạn như ‘Hợp Đồng Xã Hội” của Rousseau, những người khác lại ghi nhận cái lợi ích thời tiền Cách Mạng thay vì chú ý tới tác phẩm “Héloise tân thời”.
Giống như sự khai sáng không phải là một cuộc thập tự chinh về trí tuệ đoàn kết mà tự nó đánh đổ những phán đoán căn bản của chế độ cũ, Giáo hội Công Giáo cũng không phải là một tảng bia đá vững chắc luôn luôn chống đỡ cho uy quyền của chế độ quân chủ.  Một số các triết gia nổi tiếng nhất chính là các tu sĩ, thí dụ như Mably, Condillac, Raynal và Turgot. Thêm vào đó, Dale Van Kley vẫn kiên quyết trong sự quan trọng của di sản tôn giáo lâu dài về những ý tưởng tự do chính trị của giáo phái Tin Lành và Jansen cùng những thách đố tới phẩm trật của tôn giáo. Tiến tới nắm 1730, nếu cảnh sát đánh giá sự ủng hộ cho những chỉ trích của giáo phái Jansen về phẩm trật giáo hội có tới 3/4 tại các vùng ngoại ô bình dân Paris, thì hậu quả lâu dài của nó sẽ như thế nào? Mặc dù những cuộc trấn áp giới Jansenist trong suốt thế kỷ, nhưng giá trị của họ vẫn luôn tồn tại trong số những nhà giàu có, những người đi theo một luật gia công giáo thời thế kỷ 17 đã có tranh luận rằng Đức Kitô đã không chỉ uỷ nhiệm cho 12 tông đồ làm các giám mục kế thừa, mà có luôn cả 72 môn đệ hay còn được gọi là các linh mục đã được thánh sử Luca nhắc đến.
Mặc dù vậy, có một sự nối kết thiết yếu giữa những chủ đề lớn của nền triết học mới và cái xã hội  nó đang thách thức. Đời sống trí tuệ sôi động của hậu bán thế kỷ chính là một sản phẩm của xã hội đó. Không hề có sự trùng hợp rằng những mục tiêu chính yếu và nối kết nhau của việc viết lên sự phê phán là chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối và chế độ thần quyền. Diderot đã viết vào năm 1771:
“ Mỗi thế kỷ có một tinh thần riêng biệt của nó. Tinh thần của thế kỷ chúng ta dường như là sự tự do. Cuộc tấn công đầu tiên vào sự mê tín dị đoan thật dữ dội và không bị cản trở. Một khi con người dám tấn công bằng bất cứ hành vi nào vào cái rào cản tôn giáo, cái rào cản vô cùng ghê gớm và được tôn trọng bậc nhất này, thì không còn cách nào có thể dừng lại được nữa. Từ thời điểm khi họ chuyển đổi cái nhìn đe doạ chống lại cái uy lực thần quyền của hoàng gia, giây phút kế tiếp, họ không quên hướng tới việc chống lại thế quyền. Sợi dây mà nó vừa gìm giữ vừa chế ngự nhân loại bao gồm 2 sợi: sợi này không thể buông ra mà không làm sợi kia gãy đứt.”
Đối với hầu hết các triết gia, một sự chỉ trích như vậy bị giới hạn bởi sự chấp nhận giá trị xã hội của các vị linh mục quản xứ như người canh giữ trật tự và đạo đức công cộng.  Từ khước đối với cái họ nhìn thấy như là sự dốt nát và mê tín dị đoan của quần chúng, giới trí thức tương tự quay về các triều vua quang minh như là cách tốt nhất để bảo đảm một sự tự do hoá đời sống công chúng.
Một sự giải phóng như vậy cũng cần khuyến khích sự buông lỏng về sáng tạo trong đời sống kinh tế: đối với các nhà vật lý học như Turgot hay Quesnay, sự tiến triển thế giới nằm trong sự tự do sáng kiến và trao đổi thương mại (thuyết laisser-faire, laisser-passer). Qua sự tháo gỡ những chướng ngại vật đối với tự do kinh tế, các bang hội, sự kiểm soát việc buôn bán ngũ cốc và qua sự khuyến khích cải thiện nông nghiệp, sự thịnh vượng kinh tế sẽ được tạo ra và sẽ củng cố  sự tiến triển của tự do dân sự. Sự tự do như vậy chỉ dành riêng cho Âu Châu: với một số ngoại lệ, những triết lý từ Voltaire tới Helvétius đã hợp lý hoá các trang trại buôn bán nô lệ như sự tự nhiên của lớp người hạ tiện. Trong khoảng những năm  1716 – 1789 khối lượng buôn bán qua những hải cảng lớn đã tăng gấp 4 lần với khoảng chừng 2-3% mỗi năm, một phần là do việc buôn bán nô lệ. Marseilles với 120,000 cư dân năm 1789 đã do 300 đại gia đình thương gia làm bá chủ nền kinh tế. Họ là lực lượng đứng đằng sau sự Khai Sáng cũng như sự tăng trưởng kinh tế. Năm 1775, một người trong bọn họ nói rằng:
“Người thương gia mà tôi nói tới có một thân thế  có thể so sánh với giới quý tộc cổ xưa nhất là một người siêu việt với tư cách lớn trong quan điểm của ông, thiên tài của ông và doanh nghiệp của ông đã đem vận may của ông vào sự thịnh vượng của nhà nước…”
Trong các từ ngữ này, sự khai sáng không có vẻ như một tư tưởng đặt căn bản trên giai cấp. Nhưng cái gì đã là biến cố xã hội xảy đến cho những người đọc nó?  Trong lãnh vực này, đó là lịch sử xã hội của sự Khai Sáng mà các nhà sử học đã tiến tới gần nhất trong việc đánh giá những thay đổi văn hoá của những năm 1770s và 1780s. Bắt đầu từ cái cơ sở mà việc xuất bản là một hoạt động công việc nhiều tầng, Robert Danton, qua sự phân tích một sổ sách thương mại Thụỵ Sĩ bất chính,  đã khám phá ra cái mà độc giả công chúng  muốn. Trong một chế độ kiểm duyệt nghiêm ngặt, những bộ Bách Khoa tự Điển ấn loát  ngoài lề rẻ tiền được nhập lậu từ Thuỵ Sĩ được bán ra khoảng chừng  25,000  một bộ trong khoảng 1776-1789. Trong khi các giới chức thẩm quyền nhà nước làm ngơ cho vụ buôn bán những ấn phẩm rẻ tiền từ bộ Bách Khoa đến sách Thánh Kinh, chính việc buôn bán bí  mật những sách vở bị cấm đoán mới tiết lộ nhiều nhất về toàn thể mạng lưới của con người từ người in ấn, thương lái sách vở, kẻ bán dạo trên đường phố đến những người tải lậu hàng hoá đều  có thể  vướng tù tội để có thể kiếm lợi lộc từ nhu cầu của công chúng. Những bản mục lục Thuỵ Sĩ hiến cho người đọc ở mọi mức độ tầng lớp của xã hội đô thị một sự pha trộn mang tính bùng nổ về triết lý và sự thô tục. Những tác phẩm hay nhất của Rousseau như Helvétius và d’Holbach nằm chen chân với những cuốn đồi truỵ như “Vệ Nữ trong tu viện hay tôn giáo trong hoá trang, Cô gái ham vui hay Mối tình của Charlot và Toinette” khởi đầu với sự diễn tả về một hoàng hậu thủ dâm và những trò dâm loạn của bà với người em chồng và chế giễu nhà vua:
Đáng thương thay cho ngài Bệ Hạ,
Ba bốn lần đã bị nhục mạ,
Vì chưng  ngài vô cùng bất lực.
Đã không thể làm Antoinette thoả mãn,
Vì điều bất hạnh này ta có thể đoán
Súng đạn của ngài chỉ bé cỏn con
Chắc chẳng lớn hơn một cọng rơm
Mềm như bún và cong queo thấy ớn…

Cái giọng điệu đả phá của những sách vở này lại cũng đi đôi với những bài ca vè quần chúng. Một viên thư ký trong một bộ ngành có trách nhiệm quy định buôn bán sách vở đã trình lên cấp trên của ông để áp đặt sự kiểm duyệt nghiêm khắc hơn: “Người ta cảm nhận rằng những bài ca bán dạo trên đường phố để làm vui lòng quần chúng đang hướng dẫn họ đến một hệ thống tự do. Đám đông ô hợp thuộc đủ mọi thành phần vô lại tự choàng cho mình cái áo choàng tầng lớp thứ ba (lao động) đã không còn chút tôn trọng nào đối với giới quý tộc.

Giọng điệu thô lỗ nhưng giả đạo đức của những sách vở và các bài ca vè này chế nhạo Giáo Hội, quý tộc và hoàng gia cho sự suy đồi và bất lực, cùng lúc đả phá cái huyền thoại về việc những người được sinh ra để cai trị cũng như có khả năng để cai trị. Đó không phải là vấn đề mà các con trai gái của vua Louis XVI đã sinh ra vào 1778, 1781 và 1785. Ngay tại các thành phố vùng miền do các tầng lớp có ưu tiên thống trị như Toulouse, Besanҫon và Troyes, bộ Bách Khoa Tự Điển và sự thô tục của văn chương bí mật cũng tìm thấy sẵn thị trường. Arlette Farge tranh luận rẳng, sau năm 1750, giới lao động bình dân Paris cũng đã tham gia nhiều hơn vào các cuộc tranh luận công cộng, không phải vì những bài viết của giới trí thức Khai Sáng đã sàng lọc xuống tới họ, mà là do chính họ đối kháng  lại với những tùy tiện độc đoán của hoàng gia.
Sự Khai Sáng không đơn giản là một phong trào văn hoá tự giác, mà nó tồn tại trong tiềm thức trong những giá trị chuyển đổi. Vào năm 1700, sự kiểm kê tài sản tại Paris đã chỉ ra rằng có 13% ngừời có lợi tức là lương bổng sở hữu sách vở, 32% là viên chức toà án, 26% là giới hiệp sĩ quý tộc. Đến nửa thế kỷ sau, con số là 35%, 58% và 53%. David Garrioch, sử gia  của  quận St-Marcel đã chống lại những di chúc của 2 tay thuộc da giàu có. Nicolas Nouillerot để lại 73 cuốn sách khi ông ta qua đời năm 1734, tất cả đều về tôn giáo. Jean Auffray qua đời năm 1792 dù giàu có không bằng cũng để lại 500 sách vở gồm có cả những tác phẩm lịch sử và sách cổ LaTinh cùng một số bản đồ và sổ sách nhỏ.  Dĩ nhiên, điều này không nói lên gì nhiều hơn  là sự yêu thích văn chương của 2 cá nhân, nhưng Garioch coi đó như là điển hình của sự thay đổi về giá trị và ích lợi trong số các nhà tư sản  mà theo họ sự Khai Sáng là một lối sống.
Lại còn một cách tiếp cận khác về sự Khai Sáng dựa  mạnh mẽ vào tác phẩm của nhà xã hội học Đức Jurgen Habermas viết năm 1960s trong bối cảnh của lịch sử mới đây của đất nước của ông, kèm thêm số kiến thức về nước Nga của thời Stalin. Theo Habermas, sự Khai Sáng được hiểu rõ ràng nhất như sự diễn tả trí thức của nền văn hoá dân chủ chính trị. Những sử gia mới đây đã mở rộng thêm ý tưởng của Habermas về văn hoá chính trị và không gian công cộng bằng sự đi quá khỏi lịch sử trí thức ưu tú tới những không gian mà trong đó các ý tưởng được nối khớp và tranh đua. Thí dụ, khác biệt với tập đoàn trong thế giới, đặc quyền của các học viện quý tộc trở nên thoáng hơn, các trụ sở Masonic suy nghĩ tự do, một hình thức tư sản và tính xã giao (của nam giới) phát triển đáng kể sau 1760, mặc cho những lệnh lạc của nhiều vị Giáo Hoàng đã không ngăn cản được 400 linh mục gia nhập. Có tới khoảng 210,000 hội viên trong 600 trụ sở vào những năm 1780s. Sự lan tràn của chủ nghĩa tự do kiểu Freemasonry này một phần là sự biểu lộ của một nền văn hoá tư sản khác biệt bên ngoài những quy định của giới quý tộc ưu tú. Các doanh nhân, không kể các quý tộc trong các học viện, chiếm tới 35 đến 50% tại các trụ sở, cũng thu hút các chiến sĩ, công chức và các nhà chuyên môn. Tại Paris, 74% hội viên Freemasons thuộc tầng lớp thứ ba (thường dân). Tuy nhiên, Dena Goodman phản biện rằng hội Freemansonry là không gian của đàn ông ngược lại với thế giới salon (phòng khách) của Paris nơi mà phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc tạo thành các không gian có cả nữ tính và sự suy nghĩ tự do.
Như vậy, cái ý nghĩa thực sự của sự Khai Sáng dường như là một triệu chứng khủng hoảng của giới cầm quyền và là một phần của cuộc tranh luận chính trị rộng lớn hơn. Trước năm 1780, các từ ngữ “công dân, quốc gia, hợp đồng xã hội và ước nguyện chung” được nối kết trong toàn xã hội Pháp phản biện lại với những từ ngữ cũ như “ thứ bậc, tầng lớp, tập đoàn.”  Daniel Roche đã nhấn mạnh sự quan trọng của sự khủng hoảng văn hoá thật rõ ràng trong một lãnh vực công cộng của lý do phê phán mới trong những phòng khách Paris, những cộng đồng chịu học hỏi và những trụ sở theo chủ nghĩa tự do Mason. “Sự đoạn tuyệt với quá khứ, đã xảy ra trong một vài mối quan hệ:  sự kiểm duyệt không đạt đưọc gì và một khía cạnh của tự do đã được thiết lập qua sự tiêu thụ hàng hoá gia tăng cường độ, nhanh chóng và quyết liệt. Sự liên hệ phức tạp tương tự giữa người đọc sách công cộng và người viết hiện hữu trong thế giới nghệ thuật, được minh hoạ tronng sự việc công chúng tiếp nhận tác phẩm “ Lời thề của Horatìi” của David  vào năm 1785, với sự ăn mừng về cách cư xử của công chúng được nhận thức như đạo đức.  Cái chủ đề của nó vang dội trong số những khán giả thuộc lớp trung lưu theo trường phái cổ điển.  Tác giả của cuốn “ Trên bức tranh” xuất bản 1762 đã chống lại lối vẽ tranh quy ước và sự suy đồi của thành phần ưu tú xã hội, khuyến khích sự phê phán nghệ thuật để rút ra những cân nhắc mang tính luân lý và chính trị.
Thế giới  văn chương sinh động trong những năm 1780s thực sự là một hiện tượng thành phố. Thí dụ tại Paris, cứ 1200 cư dân đã có một trường tiểu học và hầu hết nam nữ đều biết đọc chữ. Tại những khu vực xa xôi quê mùa, nguồn chủ yếu  của chữ in mà chỉ ít người có học thi thoảng đọc to lên tại các buổi tối tập trung là Thánh Kinh, lịch phổ thông về các ngày lễ và các mùa, và các loại sách thư viện xanh: Đây là loại sách sản xuất số lượng lớn với bìa giấy, rẻ tiền, giúp cho người dân quê tạm quên đi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống thường ngày bước vào thế giới kỳ diệu thời Trung Cổ của các nhân vật siêu nhiên, các vị thánh và các kỳ tích.  Trong khi dường như có một sự trần tục hoá về loại thông tin chứa đựng trong các trang lịch, vẫn không có chứng cớ nào về vấn đề đọc sách được  những người bán hàng rong truyền  tải đến các vùng quê được hấp thụ với những tư tưởng Khai Sáng,
Dẫu thế, miền quê nước Pháp vào những năm 1780s đã trải qua khủng hoảng.  Tại Montigny, hiệp ước tự do mậu dịch với Anh Quốc năm 1786 đã trở thành thảm hoạ cho kỹ nghệ vải sợi. Các nhà sản xuất miền quê cũng bị vùi dập tơi bời vì tiền thuê đất của Giáo Hội tăng gấp ba trong những năm 1780s và năm 1788 mùa màng bị thất thu. Ít nhất tại Burgundy, sự tranh luận tại các làng mạc đối đầu với quyền lực lãnh chúa được thấy có dấu hiệu gia tăng qua những đòi hỏi về tiện ích xã hội, lý lẽ và về  cả những ý tưởng công dân. Có rất nhiều chứng cớ về các quý tộc đã thuê mướn luật sư để kiểm soát hay thắt chặt việc thu tô thu thuế cho chính xác như một phương cách tăng thêm lợi tức trong thời buổi lạm phát, điều mà sau đó được gọi là  phản ứng phong kiến.” Thí dụ, vào năm 1786, gia đình Saulx-Tavanes tại Burgundy đã dùng sự thăng tiến của họ lên vị  thế công tước để tăng gấp đôi mọi thuế thu trong một năm, làm sống lại một tập tục đã không được xử dụng từ thế kỷ 13. Sự đầu tư của họ vào việc cải tiến nông trại,  chưa bao giờ vượt quá 5% các chi tiêu của họ, vào cuối thập niên 1780s co cụm đến thành con số không, trong khi  phí thuê mướn tăng gấp hai vì giới quý tộc chủ đất tìm cách thoát khỏi nợ nần. Một nhân viên ngành thuế đi qua vùng Tây Nam nước Pháp đã rất kinh ngạc khi khám phá ra những nhà quý tộc áp đặt những quyền lợi và thuế phí chưa bao giờ được biết đến hay đã bị xóa bỏ, chẳng hạn như một cách đo đạc lạ thuờng mà một thẩm phán quý tộc trong nghị viện thành Toulouse đã ép buộc dùng mỗi khi ông ta đi mua đất. Phản ứng này đã xảy ra trong bối cảnh một cuộc lạm phát lâu dài, trong khi giá cả của ngũ cốc vượt quá khỏi lương lậu người lao động, và những vụ mùa thất thu năm 1785 và 1788 làm giá cả tăng gấp đôi. Cộng chung lại, họ giải thích sự leo thang xung đột tại các vùng quê: có tới chừng 3/4 trong số 4,400 những cuộc tập trung phản đối có ghi chép lại từ 1720 đến 1788 đã xảy ra sau năm 1765, hầu hết dưới hình thức bạo loạn đòi thực phẩm và chống lại chủ nghĩa lãnh chúa.
Điều này phù hợp với luận án của Tocqueville về một nhà nước gia tăng quyền lực và can thiệp bừa vào việc làm cho giới quý tộc rối loạn hoạt động bằng cách hạ thấp việc biện giải lý thuyết về các đặc quyền của họ. Các loại thuế phí đóng cho lãnh chúa có thể không còn hợp pháp như cái giá mà giới không có đặc quyền phải trả cho sự cứu trợ, bảo hộ và phụ giúp người nghèo đói từ các lãnh chúa thường ít khi có mặt tại cộng đồng. Thêm nữa, hệ thống lãnh địa dường như nhỏ hơn một cái giỏ tiền. Điều đó chính là sự đáp lại của các lãnh chúa đối với sự thách đố này đến uy quyền và tài sản của họ, cả ở trên thượng và hạ tầng, những cái đã làm cho họ trở nên háo thắng. Trong khi một số nhà sử học tranh luận rằng chế độ phong kiến đã thực sự ngừng hiện hữu vào hậu bán thế kỷ 18, cho tới nay họ chỉ có một điểm chung duy nhất là cái quan niệm giới quý tộc độc nhất vô vị dường như đã mất sự thích đáng đối với những lãnh chúa vắng mặt mà lợi nhuận của họ cóp nhặt từ  giới nông dân thù ghét họ. Nếu một chế độ lãnh địa tương đối nhẹ nhàng và không quá hung bạo như tại Roussilon và Brittany ở  2 đầu đối nghịch của đất nước, nó lại chẳng là gì cả tại các khu vực miền trung tâm hay tại Languedoc. Nói chung, chính sự phẫn nộ này về chế độ lãnh địa đã nối kết các cộng đồng nông thôn lại với nhau chống lại các lãnh chúa của họ.
Nông dân không chấp nhận quyền lực của những người mà họ được dạy phải chấp hành mà không  được phép hỏi han gì. Đặc biệt tại vùng bình nguyên Languedoc, như Olwen Hufton và Georges Fournier diễn tả, có chứng cớ về tâm trạng của một anh chàng trai trẻ thường thách đố uy quyền của các lãnh chúa, linh mục và các viên chức địa phương và trưng bày ra sự cáu giận bị tố giác như là  một ”tinh thần cộng hoà” từ giới chức cầm quyền. Cứu xét vài thí dụ từ miền Corbières của xứ Languedoc, thuộc Đông Nam của Carcassonne: Một người lao công từ Albas đã nói với những người đồng nghiệp khác khi có vị lãnh chúa đi qua: “Nếu mấy người cũng làm như tôi làm, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ lấy hết các quyền của cái anh chàng (…) lãnh chúa này.” Sau đó, anh ta nói với một anh thợ rèn: “ Nếu anh bạn làm giống tôi làm, anh không chỉ không còn phải giở mũ ra chào trước mặt bọn chúng, mà anh còn không  phải thừa nhận chúng là lãnh chúa của anh nữa, bởi vì đối với tôi, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ ngả mũ chào chúng, một lũ cướp của trộm cắp côn đồ…” Tại vùng Termes gần đó, một anh chàng đưa người anh em rể ra toà trong những năm  trước thời Cách Mạng vì ông này đã nói rằng “ anh ta cư xử như một lãnh chúa với giọng điệu kiêu căng ngạo mạn.” Những người bị các linh mục, quý tộc và những người địa phương có công ăn việc làm tốt gọi là  “đám theo đuôi tự do”, đám “nổi loạn”, tuyệt đại đa số là những nông dân trẻ và ba phần tư những biến cố sự kiện mà họ có dính líu tới đều liên quan đến việc họ từ chối tỏ dấu hiệu phục tùng. Vào năm 1780, những thanh niên vùng Tuchan đã chế nhạo một tay lãnh chúa địa phương bằng một bài ca khiêu khích bằng tiếng Occitan, tố cáo ông ta thuộc tay theo váy phụ nữ, liên hệ tới việc mê gái của hắn.
Georges Fournier đã nhận thức được những dấu hiệu rõ ràng của sự phát triển cọ xát tại Languedoc trong nội bộ các cộng đồng thôn quê và giữa họ với các lãnh chúa của họ vào hậu bán thế kỷ 18. Những hận thù có từ lâu đối với hệ thống lãnh chúa càng trầm trọng hơn, chẳng hạn như sự cố chấp của đám nghị viện quý tộc thành Toulouse kiên quyết duy trì quyền lực của đám lãnh chúa chống lại yêu sách của cộng đồng trong việc được phép đi vào những vùng đồi khô cằn sỏi đá cho đàn gia súc gặm cỏ. Các thành viên của thành phần ưu tú trong thời điểm đó cũng chắc chắn rằng liên hệ xã hội đang thay đổi.Vào năm 1776, vào cuối nhiệm kỳ rất dài và tích cực làm giám mục địa phận Carcassonne, Armand Bazin de Bezons đã cảnh báo cấp trên của ông rằng:
”Có những lúc tinh thần bạo loạn và sự thiếu tôn trọng các trưởng lão đã trở nên không thể dung thứ. Chẳng có phương thuốc nào hiệu nghiệm khi người ta đã tự tin rằng họ phải được tự do. Cái từ ngữ “tự do” này đã được biết đến cả trong những vùng núi non hẻo lánh nhất, giờ đã trở nên một loại giấy phép không kiểm soát được. Tôi hy vọng rằng việc xá tội này sẽ không dẫn đến và cuối cùng phát sinh ra những trái đắng cho chính quyền.”
Một cách chắc chắn, đó là một điều bình thường đối với một người ở một vị trí nuối tiếc cho sự sụp đổ của những khuôn mẫu hành xử đã được lý tưởng hoá, nhưng có chứng cớ để phán đoán rằng ông ta đã không sai lầm về sự soi mòn lòng tôn kính.
Lời cảnh báo của Bazin de Bazons được đưa ra trong cùng một năm với  sự tuyên bố độc lập  của những thuộc địa Bắc Mỹ của nước Anh, dấy lên việc tham dự của dân Pháp đứng  về phía họ và  rồi một cuộc khủng hoảng tài chánh. Cuộc chiến giành độc lập thành công của Hoa Hỳ có lẽ, bằng cách nào đó, đã làm dịu bớt đi sự nhục nhã mà Pháp  phải chịu đựng  bởi Anh Quốc tại Ấn Độ, Canada và vùng hải đảo Caribbeans. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho cuộc chiến tới hơn một tỷ livres, gấp hơn 2 lần doanh thu của quốc gia.  Khi vương quốc chao đảo trong cuộc khủng hoảng tài chánh sau năm 1783, sự thay đổi kinh tế và cấu trúc văn hoá của xã hội Pháp gây nên những đáp ứng xung đột đối lại lời kêu gọi hỗ trợ của vua Louis XVI. Cái giá trả cho cuộc chiến gia tăng, bảo tồn một triều đình và  hành chánh  mở rộng, vay mượn một món nợ khổng lồ bắt buộc hoàng gia phải tìm kiến các phương thức để loại trừ sự miễn thuế khoá cho giới quý tộc và  khả năng của các nghị viên chống cự lại các nghị định của hoàng gia. Hành vi thù nghịch cố thủ của hầu hết giới quý tộc đối với những cải tổ tài chánh và xã hội thường phát sinh từ 2 yếu tố:  Một, cái áp lực lâu năm của vương triều làm giảm thiểu đi sự tự trị của giới quý tộc. Hai, do sự thách thức của giới tư sản giàu có, đông đảo và quan yếu hơn là của giới nông dân không bị ảnh hưởng tới những khái niệm của quý tộc về tài sản, đẳng cấp và trật tự xã hội.
Những cố gắng llên tục của các quan bộ trưởng trong triều nhằm thuyết phục giới quý tộc trong các buổi họp chịu đồng ý gỡ bỏ những đặc quyền về tài chánh của giai cấp thứ hai này chìm lỉm trong sự kiên quyết đòi hỏi rằng chỉ có một sự tập họp tất cả cái đại diện của cả ba thành phần giai cấp trong một Đại Hội Đồng mới có thể chấp nhận một sự cải tổ như thế.  Khởi đầu vào tháng Hai 1787, Calonne cố thuyết phục về việc thành lập một hội đồng 144 nhà quý tộc. Chỉ có mười người trong số là nằm ngoài giới quý tộc, qua việc đề nghị những nhượng bộ như việc thiết lập hội nghị tại tất cả vùng miền để đổi lại việc giới thiệu một thứ thuế đất phổ thông, giảm thiểu thuế vải sợi và thuế muối và bỏ đi những hàng rào thuế quan nội bộ. Đế nghị của ông ta bị bỏ xó, đặc biệt đối với các điều khoản về thuế đất. Theo sau sự bãi nhiệm Calonne trong tháng Tư, người kế nhiệm ông là  Loménie de Brienne, tổng giám mục thành Toulouse cũng thất bại trong việc thuyết phục giới quý tộc với những đề nghị tương tự và họ đã bị bãi nhiệm vào cuối tháng Năm.
Brienne theo đuổi chương trình cải tổ đa dạng của ông. Lần này, vào tháng Bẩy, chính nghị viện quốc hội Paris đã từ chối ghi nhận dự luật thuế đất đồng nhất. Căng thẳng giữa hoàng gia và giới quý tộc lên tới đỉnh điểm vào tháng Tám với sự lưu vong của nghị viện đến thành Troyes. Tuy nhiên, sự ủng hộ cho nghị viện của cả giới tinh hoa và quần chúng phổ thông đã buộc nhà vua kêu gọi trở lại.  Vào ngày 28 tháng Chín, nghị viện trở lại Paris giữa sự ăn mừng của quần chúng. Nguyên tắc thuế phổ thông được bỏ qua một bên. Cùng thời gian với sự khủng hoảng giữa hoàng gia và các nghị viện lên tới đỉnh điểm trong tháng Chín 1787, có tin tức loan rằng đoàn quân thứ 13 của Phổ đã vượt biên giới để hỗ trợ công chúa Hohnzollern chống lại bọn “ái quốc” trong nước Cộng Hoà Dutch.  Những đồ đoán rằng sự can thiệp của Pháp hỗ trợ bọn ái quốc  đang tới gần bị tan vỡ khi chính quyền loan báo rằng quân đội chưa sẵn sàng.
Sự chống cự của nghị viện càng được bày tỏ qua những lời kêu gọi tổ chức một Đại Hội Đồng, một cơ quan tham vấn bao gồm các đại diện của cả ba tầng giai cấp mà đã được tổ chức tham khảo lần cuối cùng tận năm 1614. Và tháng 11 năm 1787, Lamoignon viên bộ trưởng tư pháp đã đọc một bài diễn văn tại nghị viện quốc hội có mặt hoàng gia tại Paris. Lanoignon, một vị cựu chủ tịch nghị viện nhắc nhở các đồng viện của ông về sự ưu việt của vua Louis XVI qua sự chối bỏ lời kêu gọi của họ về một cuộc họp Đại Hội Đồng:
Những nguyên tắc này, đã được toàn quốc chấp nhận hoàn toàn, chứng tỏ:
·         Rằng quyền tối thượng trong vương quốc duy nhất  thuộc về nhà vua.
·         Rằng nhà vua  chỉ chịu trách nhiệm đối với Thượng Đế cho việc thực thi quyền tối thượng .
·         Rằng những lợi ìch và nhiệm vụ hỗ tương của nhà vua và thần dân bảo đảm sự vĩnh cửu của sự kết hợp này.
·         Rằng đất nước có một lợi ích được ban cấp về những uy quyền của nhà cai trị đất nước  không thể thay đổi.
·         Rằng nhà vua là nhà cai trị tối thượng của đất nước và là người duy nhất.
Cuối cùng là quyền lập pháp ngự trị trong quyền tối thượng của nhà vua, phụ thuộc trong đó và không chia xẻ cho bất cứ ai.
Những nguyên tắc này, thưa quý ngài, là những nguyên tắc bất biến của vương quốc Pháp.
Khi các vị vua của chúng ta thành lập nghị viện quốc hội, (ông ta nhắc nhở quý đồng viện), họ mong muốn đề cử các viên chức mà nhiệm vụ của họ là quản trị công lý và bảo tồn những sắc lịnh của vương quốc và không phải để xây dựng bên  trong họ một quyền lực đối đầu với uy quyền hoàng gia.”
Tuy nhiên, lời tuyên bố vang dội của Lamoignon về những nguyên tắc của vương quốc Pháp đã không hù doạ nổi những đối tượng nổi bật nhất chịu khuất phục.

Tháng Năm sau đó, Lanoignon ấn hành 6 sắc lịnh nhắm mục đích giảm thiểu quyền lực chính trị và tư pháp của quốc hội làm dấy lên bạo loạn tại Paris và tại  thủ phủ các vùng miền. Ngay cả những lợi ích  ngầm của giới quý tộc cũng được diễn tả dưới một thứ ngôn ngữ triết lý:  nghị hội của thành Toulouse khẳng định rằng: “các quyền tự nhiên của  các thành phố áp dụnng cho mọi nam nhân là không thể xâm phạm, không thể xoá bỏ theo thời gian, vĩnh viễn tồn tại  như tính chất tạo nên  nền tảng của chúng.”  Loại ngôn ngữ đối nghịch với tuyên bố của hoàng gia kêu gọi quyền tự trị cho các thủ phủ vùng miền như Bordeaux, Rennes, Toulouse và Grenoble và những nối kết trực tiếp về sự phụ thuộc kinh tế phát sinh một sự liên kết đồng minh giữa giới lao động thành phố và các nghị viện địa phương trong năm 1788.  Khi nghị viện thành Toulouse đi lưu vong vào tháng Sáu 1788 vì sự thách thức của họ đến cuộc bãi công của sở bộ về quyền tư pháp của quý tộc,  đạo quân hoàng gia đã bị đám dân nổi loạn đuổi ra khỏi thành phố trong cái  “ngày của gạch ngói.”  Đám hưởng lợi đằng sau giới quý tộc kêu gọi đến sự tuân thủ “luật tự nhiên, quyền không thể xâm phạm và đất nước” để bảo đảm rằng thứ liên kết đồng minh đó sẽ không thể tồn tại.  Từ một buổi họp của giới quý tộc địa phương vào tháng Bẩy 1788 ở lâu đài mà Claude Périer đã đạt được tại Vizille, lại có thêm một lời kêu gọi cho một Đại Hội Đồng, nhưng lần này, lời kêu gọi đòi hỏi tầng lớp thứ ba (giới thường dân) phải có gấp đôi số đại diện của 2 tầng lớp ở trên trong sự công nhận sự quan trọng của tầng lớp này trong đời sống của quốc gia. Cũng trong tháng đó, vua Louis đã quyết định rằng cuối cùng ông sẽ triệu tập một Đại Hội Đồng vào tháng Năm 1789 và Lamoignon và Brienne từ chức.

Qua tháng Chín 1788, nhà nông học người Anh Arthur Young đã tự tìm thấy tại hải cảng Đại Tây Dương của thành phố Nantes chỉ 6 tuần sau khi vua Louis XVI tuyên bố triệu tập Đại Hội Đồng. Là một nhà quan sát và ghi nhận, Young ghi trong bút ký của ông:

“Thành Nantes đang bốc cháy trong cơn lốc tự do như bất cứ phố thị nào trong nước Pháp. Những cuộc đàm thoại mà tôi chứng kiến tại đây chứng tỏ sự thay đổi to tát như thế nào trong tâm trí dân Pháp, thực tình tôi không thể tin là chính quyền hiện thời có thể tồn tại thêm nửa thế kỷ nữa, trừ phi có những tài năng rõ rệt và bản lĩnh vượt trội nhất cầm lái.”

Nantes là một hải cảng nhộn nhịp với 90,000 cư dân mà nó khuyếch trương nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của việc buôn bán thuộc địa với vùng đảo Caribbean trong suốt thế kỷ 18.  Những thương buôn trò chuyện đã làm cho ông tin  về quyền lợi của những “người có tài năng” tham dự nhiều hơn vào đời sống công cộng.  Hơn nữa, sự nhiệt tâm của họ về sự cải tổ tiết lộ ra nhiều hơn về cuộc khủng hoảng của một nưóc Pháp phong kiến đi quá khỏi sự va chạm giữa giới quý tộc và nhà vua. Cái nhận thức về chính trị này cũng không giới hạn chỉ cho giới ưu tú. Ông thợ vá giầy Paris Joseph Charon nhớ lại trong hồi ký của ông rằng trước những rối ren trong tháng Tám - tháng Chín 1788: ”sự sôi động chính trị đã đi xuống từ những người ở hàng cao cấp nhất đến hàng thấp nhất qua đủ loại các  kênh. Người ta đạt được và chia xẻ những ý tưởng về hiến pháp công cộng trong 2, 3 năm vừa qua.”

Sự triệu tập một Đại Hội Đồng đã làm dịu đi những mối căng thẳng trên toàn thể mức độ của xã hội Pháp và để lộ ra sự phân chia xã hội mà chúng thách đố cái ý tưởng về một xã hội “giai cấp”. Sự rung động đáng kể của sự tranh luận trong những tháng trước tháng Năm 1789, một phần là kết quả của việc tạm dừng việc kiểm duyệt báo chí. Được biết rằng đã có 1519 loại truyền đơn về các chủ đề chính trị được in ấn giữa tháng Năm và tháng 12 năm 1788. Trong 4 tháng đầu của năm 1789, lại có thêm 2639 ấn bản theo sau. Cuộc bút chiến này tăng thêm cường độ vì tính thiếu quyết đoán của vua Louis về những phương thức cần phải làm tại điện Versailles. Bị xâu xé giữa một sự trung thành với một cơ cấu đã được thiết lập về trật tự đẳng cấp, ưu thế và những đòi hỏi của cuộc khủng hoảng tài chánh, nhà vua đã bị lung lạc trên cái câu hỏi chính trị thiết yếu về việc có nên để 3 tầng lớp hội họp riêng rẽ giống như thời 1614, hay để họp chung phòng. Vào tháng Chín, quốc hội Paris đã ra quyết nghị rằng trong vấn đề này cần đi theo truyền thống. Sau đó, vua Louis quyết định vào ngày 05 tháng 12 cho tăng gấp đôi số đại biểu của tầng lớp thứ ba. Điều này chỉ làm tăng thêm sự nghiêm trọng của quyền lực chính trị, bởi vì nhà vua vẫn không cho biết việc bầu bán sẽ thực hiện như thế nào. Vào tháng Giêng 1789, Mallet du Pan, một nhà báo Thụy Sĩ đã bình luận: “cuộc tranh luận  công cộng đã thay đổi hoàn toàn mục tiêu chính của nó. Bây giờ nhà vua, sự chuyên chế và Hiến Pháp chỉ còn là vấn đề thứ yếu và nó đã trở thành cuộc chiến giữa tầng lớp thứ ba và 2 giai cấp kia.”

Ông hoàng Provence, người em trai của nhà vua đã sẵn sàng chấp thuận gia tăng đại biểu tầng lớp thứ ba, nhưng đứa em út Artois và những ông hoàng thân thuộc khác bày tỏ sự cố chấp và sợ hãi của họ trong một hồi ký viết cho Louis tháng 12:

“Ai có thể nói khi nào những ý kiến vô trách nhiệm sẽ dừng lại? Uy quyền của nhà vua đã đang bị tra vấn. Quyền lực của 2 tầng lớp của đất nước phân chia nhiều ý kiến: không bao lâu nữa quyền sở hữu tài sản sẽ bị tấn công, sự bất bình đẳng về vận mạng sẽ được trình bày như một đối tượng của sự cải tổ. Sự đàn áp các quyền lợi phong kiến đã được đề nghị cũng như sự hủy bỏ về một hệ thống đàn áp, những tồn tại của tính man rợ”.

Như vậy, có thể nào tầng lớp thứ ba ngưng ngay lại sự tấn công các quyền lợi của 2 tầng lớp trên không? Các quyền mà cũng lâu đời không kém chế độ quân chủ, chúng không thể thay đổi cũng như Hiến Pháp vậy. Những quyền mà nó tự giới hạn đi tìm kiếm sự cắt giảm thuế mà nó gánh vác. Như vậy thì 2 tầng lớp trên, những tầng lớp đã được các công dân tầng lớp thứ ba công nhận thân thiết với họ sẽ, với tấm lòng quảng đại, có thể từ bỏ những đặc quyền về lợi ích tài chánh của họ và bằng lòng gánh vác trách nhiệm công cộng trong cái sự bình đẳng hoàn thiện nhất.

Cùng thời điểm đó, Emanuel Sieyès, một linh mục 40 tuổi thuộc thành phần tư sản đã cộng tác bằng một trong những tường trình đáng chú ý nhất của ông với tựa đề “Tầng Lớp thứ Ba Là Gì?” Tra khảo nỗi ám ảnh của giới quý tộc với những đặc quyền đáng ghét của họ, Sieyès đưa ra một lời tuyên bố vang vọng về khả năng của thường dân. Một điều chắc chắn là Sieyès không phải là một nhà dân chủ. Ông ta ghi chú rằng phụ nữ và người nghèo không thể được tín nhiệm trong các trách nhiệm chính trị, nhưng thách thức của ông ta nối khớp lại sự không khoan nhượng căn bản:

“ Chúng ta hãy tự hỏi ba câu sau:
1.      Tầng lớp thứ ba là gì? Là mọi thứ.
2.      Từ xưa đến nay trật tự chính tri đã là gì? Chẳng có gì.
3.      Vậy nó đang hỏi gì? Là một điều gì đó…
Như vậy, ai dám nói rằng tầng lớp thứ ba không chứa đựng mọi thứ  cần thiết để xây dựng nên một quốc gia hoàn toàn? Đó chính là một người mạnh mẽ cường tráng mà một cánh tay vẫn đang bị xiềng xích trói chặt. Nếu như các giai cấp ưu tiên được tháo bỏ, đất nước sẽ không vì thế mà xấu đi, trái lại còn tốt hơn. Vậy thì, tầng lớp thứ Ba là gì? Là tất cả mọi thứ, nhưng là mọi thứ bị trói buộc và đàn áp. Nếu không có các tầng lớp ưu tiên thì sẽ có gì? Có mọi thứ, nhưng là những thứ tự do và hưng thịnh. Sự lo sợ nhìn thấy những cảnh ngược đãi được tái tạo gây nên sợ hãi trong giới quý tộc nhiều hơn  sự  mơ ước  họ muốn được tự do.  Giữa tự do và một ít những đặc quyền đáng ghét, họ đã chọn đặc quyền. Giờ đây, họ kinh sợ cái gọi là  Đại Hội Đồng  mà trước đây họ đã có lần kêu gọi thực thi với đầy nhiệt tâm.”

Truyền đơn của Sieyès vang vọng lên cái âm thanh của lòng ái quốc mà giới quý tộc quá ích kỷ để được ký thác vào một diễn tiến tái tạo đất nước và  vì thế có thể bị đào thải khỏi cơ cấu chính trị. Điều đáng nói ở đây là Sieyès chỉ viết về một tầng lớp ưu tiên, có thể dự đoán rõ ràng rằng giới tu sĩ bị phân chia  ra giữa các linh mục thuộc tầng lớp quý tộc và các linh mục thuộc giới thường dân.

Mùa đông khốc liệt 1788-1789 với những cơn bão tuyết trong tháng Bẩy đã phá hoại mùa màng tại khu vực Paris làm cho các nông dân không còn khả năng đóng thuế. Mùa đông cũng mang lại bất hạnh tương đồng cho các thành phố khác. Các nhà đương thời đánh giá có tới 80,000 người thất nghiệp tại Paris, và có đến khoảng  một nửa hay hơn số đó tại các thành phố kỹ nghệ vải sợi như Amiens, Lyons. Carcassonne, Lille, Troyes và Rouen. Sự đương đầu với khủng hoảng tiếp trợ thực phẩm vẫn theo các hình thức truyền thống cũ, tức là người tiêu thụ tập trung đòi hỏi buộc phải hạ giá cả bánh mì. Tuy nhiên, tại nhiều khu vực phía Bắc đã có những báo cáo về sự chống đối lại hệ thống lãnh địa, đặc biệt là các luật lệ về trò chơi và những giới hạn săn bắn. Trên những vùng lãnh địa của ông hoàng de Conti ở gần Pontoise, không xa Menucourt là mấy, nông dân và các người làm thuê đã đi săn thỏ bất chấp sự vi phạm vào đặc quyền của  lãnh chúa. Tại Artois, nông dân của trên chục làng xóm tụ tập nhau lại để chiếm giữ sân chơi của bá tước d’Oisy.

Vào mùa xuân 1789, người dân khắp nước Pháp đòi hỏi xây dựng những đề nghị về một sự cải tổ đời sống công cộng và để bầu ra những đại biểu cho Đại Hội Đồng. Đặc biệt, những hội thảo của giáo khu và đoàn thể và các cuộc họp của giới tu sĩ và quý tộc đã tham gia vào việc biên soạn những “bản danh sách liệt kê những khiếu nại bất mãn” để hướng dẫn các đại biểu về các khuyến cáo sẽ được trình lên nhà vua. Việc vẽ vời lên những bản khiếu nại này trong bối cảnh của sự khủng hoảng tồn tại, của tình trạng chính trị bấp bênh và của sự chao đảo tài chánh đã là thời điểm quyết định trong sự chính trị hoá quần chúng về những va chạm xã hội. Ít nhất trên bề mặt, bản khiếu nại của cả 3 tầng lớp đã chỉ ra  một mức độ đáng kể về sự đồng ý, đặc biệt ở mức độ các khu vực. Trước hết, bất kể là sự diễn tả  lòng biết ơn và trung thành với nhà vua có thành thật  như thế nào đi nữa,  bản khiếu nại của cả 3 tầng lớp cũng cho rằng nền quân chủ chuyên chế đang trong cơn hấp hối, và cuộc họp của Đại Hội Đồng trong tháng Năm  mới chỉ là bước đầu của một chu kỳ đều đặn. Nếu không có lý do để nghi ngờ sự thành thật của những cách diễn tả lập đi lập lại về sự biết ơn và thành tâm đối với nhà vua, thì những cấp bộ trưởng của ông sẽ bị khiển trách vì những sự bê bối tài chánh và việc lạm quyền của họ.  Nhà vua bị thúc giục phải tiết lộ đầy đủ về tình trạng nợ nần của đất nước và nhượng bộ cho Đại Hội Đồng  (giờ thường được gọi là Hội Đồng Quốc Gia) kiểm soát sự chi tiêu ngân sách và thuế má.

Thứ hai, có sự đồng thuận rằng Giáo Hội đang ở trong một nhu cầu cấp thiết phải cải tổ để kiểm soát những sự lạm dụng trong phạm vi phẩm trật của Giáo Hội và để cải thiện toàn bộ hàng giáo sĩ. Thứ Ba, trong khối lượng các quý tộc, giáo sĩ và giới tư sản, dường như đã hiện hữu một sự chấp nhận chung về những nguyên tắc căn bản của sự bình đẳng tài chính, rằng giới quý tộc và giáo sĩ sẽ từ bỏ, ít ra là một phần nào đó, việc được miễn trừ đóng thuế của họ. Bản khiếu nại của cả 3 tầng lớp đã đưa ra sự đồng ý tương tự về nhu cầu cải tổ tư pháp: rằng luật lệ nên được làm đồng nhất trong cả nước và giữa các vùng miền; rằng ngành quản trị tư pháp nên giản tiện và ít tốn kém hơn và rằng luật lệ nên nhân bản hơn. Cuối cùng, những lợi ích về việc mậu dịch nội tại tự do và làm phương tiện chuyển tải  và thương mại dễ dàng được chấp nhận rộng rãi.

Tuy nhiên, trên nhiều vấn đề căn bản của trật tự xã hội và quyền lực chính trị, những bè phái bảo thủ đã làm giảm thiểu khả năng của sự cải tổ đã được đồng thuận. Những tương phản nghiêm trọng nhất của bản khiếu nại nằm trong các quan điểm về thế giới phân cực của giới nông dân, tư sản và các quý tộc vùng miền. Ngay cả giới tư sản tỉnh nhỏ cũng nói công khai về một xã hội mới mang đặc tính “mọi nghề nghiệp được mở mang theo tài năng”, về sự khuyến khích doanh nghiệp, về bình đẳng thuế khoá, về tư tưởng tự do và về sự chấm dứt đặc quyền.  Giới quý tộc đáp trả với một viễn ảnh hoang tưởng về cái thứ bậc ổn định của các tầng lớp xã hội và về những nghĩa vụ, về sự bảo vệ những miễn trừ cho quý tộc và về việc tân trang sự tự trị chính trị. Đối với các quý tộc tỉnh lẻ, các quyền lãnh chúa và các đặc quyền quý tộc  vô cùng quan trọng không thể  thương lượng, và từ ý tưởng này phát sinh sự cố chấp của hầu hết 270 đại biểu quý tộc được bầu đi đến Versailles. Đối với các viên chức tự trọng, các chuyên gia và những người sở hữu tài sản, những yêu sách như vậy là xúc phạm và thiếu nhân cách, phản ánh trong sự kiên quyết lập đi lập lại trong các tờ khiếu nại ở  các toà  án cấp thấp mà những đại biểu thuộc tầng lớp thứ ba  nên từ chối  đễ gặp gỡ riêng rẽ. Đối với sự kiên quyết của dân làng trong việc tẩy chay các thuế phí lãnh địa hay chỉ thanh toán rất ít, giới quý tộc tái khẳng định niềm tin của họ vào một trật tự xã hội lý tưởng về một xã hội có tôn ti trật tự và có sự phụ thuộc hỗ tương, về sự công nhận những hy sinh vĩ đại mà các hiệp sĩ quý tộc đã cống hiến cho đất nước. Nói chung, giới quý tộc tìm kiếm một vai trò chính trị rộng lớn hơn cho họ trong phạm vi một chế độ quân chủ lập hiến có giới hạn, với một hệ thống các đại diện mà nó bảo đảm sự  ổn định về trật tự xã hội trong việc bảo đảm chỉ có một vai trò giới hạn cho  giới tinh hoa của tầng lớp thứ ba.

Một mưu kế biện luận điển hình của giới quý tộc trên cả nước Pháp là sự tuyên bố thật hùng hồn về việc sẵn sàng gia nhập vào tầng lớp thứ ba trong cái chương trình cải tổ và chấp nhận chung về những bổn phận đi song hành với với những câu nói tinh tế mang hàm ý phủ nhận một cách hữu hiệu sự quảng đại ban đầu của họ.  Chẳng hạn như cái tầng lớp thứ hai của vùng Berry hội họp tại Bourges đã bày tỏ niềm vui thích của họ rằng “cái tinh thần liên kết và đồng thuận mà nó luôn luôn ngự trị giữa ba tầng lớp” nó được biểu lộ bình đẳng trong các văn bản khiếu nại.  Câu hỏi về việc bầu bán theo cách đếm đầu người  trong sự họp bàn của Đại Hội Đồng là điều duy nhất chia cách tầng lớp thứ ba khỏi 2 tầng lớp trên cao, những người với mong ước bền bỉ là chủ ý ở đó để ra lệnh. Tuy nhiên, quả thực, đã có hàng loạt các vấn đề không đạt đưọc thỏa thuận. Thí dụ, tại giáo khu Levet, cách Bourges 18 kms về phía Nam, nơi có  không ít hơn 17 giáo sĩ và chin giáo dân có quyền lãnh chúa,  trong một cuộc họp với 4 chủ trang trại và 30 người làm thuê đã kiên quyết:
Điều 1: Rằng tầng lớp thứ ba sẽ bỏ phiếu theo  mẫu đếm phiếu cá nhân tại hội nghị của Đại Hội Đồng.
Điều 2: Tất cả các hình thức miễn trừ đều bị xoá bỏ, chẳng hạn như những người quan tâm đến vấn đề đo đạc, tư hữu, doanh trại quân đội v.v… hoàn toàn sinh ra từ tầng lớp thứ ba bất hạnh nhất.
Điều 9: Luật pháp lãnh chúa phải bị xóa bỏ và người ta chịu trách nhiệm trước công lý thay vì tuyên thệ trước mặt một thẩm phán hoàng gia gần nhất.
Như thành viên của  tập đoàn, một bộ phận được ưu tiên, các linh mục giáo xứ dự kiến một trật tự xã hội được trẻ trung hoá dưới những điều tốt lành của Giáo Hội Công Giáo độc quyền về đạo đức và thờ phượng.

Tuy nhiên, khi  còn là thường dân từ thuở sinh ra, họ cũng đồng cảm một cách bất hạnh với những nhu cầu của người nghèo về  sự mở ra những vị  trí thăng tiến cho những người “có tài năng”, kể cả những vị trí trong phẩm trật Giáo Hội, và những lời kêu gọi cho một hệ thống thuế phổ quát. Tuy nhiên, không giống với tầng lớp thứ ba, giới giáo sĩ kiên quyết không chịu đầu hàng độc quyền của họ trong việc thờ phượng và luân lý đạo đức công.Tầng lớp thứ nhất tại Bourges đã viết đơn  khẩn cầu nhà vua ra lệnh rằng tất cả những người tìm cách truyền bá chất độc nghi ngờ của họ, sự tấn công tôn giáo và những huyền bí , kỷ cương và tín lý của tôn giáo phải bị coi là kẻ thù của Giáo Hội và Đất nước, và sẽ bị nghiêm trị; rằng  những nhà in phải bị cấm đoán in ra những sách vở trái nghịch với tôn giáo. Họ khẳng định rằng: “Giáo Hội Công Giáo La Mã là  tôn giáo  thực sự duy nhất.” Trong khi bản khiếu nại của quý tộc được đồng thuận chấp nhận, bản của giới giáo sĩ tiết lộ ra một sự căng thẳng rõ ràng giữa giới giáo sĩ triều (cai quản giáo xứ) và những giáo khu đại thánh đường và các tu viện ở các thị trấn.  Hàng giáo sĩ thành Troyes kiên quyết giữ vững sự phân biệt truyền thống về việc 3 tầng lớp hội họp riêng rẽ, nhưng lại làm một sự miễn trừ tối quan trọng về vấn đề thuế khóa. Trong vấn đề này, họ hối thúc một hội nghị chung thừa nhận một loại thuế phân bổ tương xứng cho mọi cá nhân của cả ba tầng lớp.

Những bản khiếu nại của người dân thường thành thị được trình bày đủ kiểu qua những cuộc hội họp của các nhà đại công nghệ, những cuộc họp giáo xứ và đôi khi là các cuộc hội họp của giới buôn bán. Hầu hết dân thợ thuyền lao động thành phố  thì quá nghèo để hội đủ tiêu chuẩn  tài sản cần thiết đòi hỏi để được tham dự. Tại Paris, chỉ có 1 trong 5 người trên 25 tuổi là có đủ điều kiện. Giống như giới nông dân, bản khiếu nại của giới tiểu thủ công tiết lộ một sự trùng khớp về lợi ích với những lợi ích của giới tư sản trong các vấn đề tài chánh,  tư pháp và chính trị, nhưng có sự khác biệt rõ ràng về các quy tắc kinh tế với việc đòi hỏi một sự bảo vệ chống lại việc cơ giới hoá và cạnh tranh, và đòi có sự kiểm soát việc mua bán mễ cốc. Đám người thù hằn giận dữ  tại Rouen nhượng bộ : “ Chúng tôi không gọi các nhà tư bản là đám vị kỷ, họ là anh  em của chúng tôi” , trước khi họ gọi là :”sự đàn áp bằng máy móc” như vậy: “ sẽ không có sự thi đua, không có vấn đề về thị trường”. Khiếu nại của dân làng Norman tại Vatimesnil cũng khẩn cầu nhà vua vì  lợi ích của nhân dân mà từ bỏ các máy dệt vì chúng làm tổn hại đến dân nghèo.  Một điều tương tự cũng được giãi bày trong một trong những khiếu nại  hiếm hoi của giới phụ nữ,  của những người bán hoa tại Paris phàn nàn về những hậu quả của việc loại bỏ các quy tắc mua bán của họ:

“Vô số các người bán hàng đã không tạo nên được cái kết quả hữu ích mà chúng tôi đã hy vọng qua sự cạnh tranh. Khi số lượng người tiêu thụ không gia tăng  tương hợp với số lượng người sản xuất
, họ sẽ làm tổn hại nhau.  Ngày nay, khi ai ai cũng có thể bán hoa và mở tiệm bán, lợi tức khiêm tốn của họ bị chia xẻ  tới một thời điểm  họ không còn có thể tồn tại. Bởi vì nghề nghiệp của họ không thể nuôi sống họ, họ sẽ đi tìm kiếm những nguồn mà họ thiếu thốn trong sự trụy lạc và những trò dâm đãng tồi bại nhất.”

Sự chân thật của 40,000 bản khiếu nại nông thôn như những lời tuyên bố của thái độ quần chúng thường bị chất vấn, không chỉ bởi số lượng của các bản khiếu nại tham gia vào việc phác thảo quá rộng lớn, trong nhiều trường hợp, những bản khuôn mẫu được lưu truyền khắp miền quê từ thị trấn này qua thị trấn khác, cả khi chúng được chấp nhận hay  thêm thắt vào  ở mức độ địa phương.  Mặc dù với điều này, chúng vẫn là nguồn không thể bỏ qua đối với các sử gia. Một tỷ dụ về 1,112 bản khiếu nại, mà trong đó có 748 bản đến từ các cộng đồng thôn quê đã là một đề tài phân tích có chất lượng do John Markoff và Gilbert Shapiro soạn thảo. Phân tích của họ chỉ ra rằng vào năm 1789, người nông dân lưu tâm về vật chất  nhiều hơn về những gánh nặng mang tính biểu trưng, và rằng họ phần lớn bỏ qua những  biểu tượng của thân phận lãnh chúa mà nó có ít ảnh hưởng trong lãnh vực vật chất, chẳng hạn như việc được mang  vũ khí ở những nơi công cộng hay được có những hàng ghế riêng trong các thánh đường. Sự thù hằn với những yêu sách của lãnh chúa có xu hướng đi song hành với việc phê phán các loại thuế phí họ phải đóng và những thực thi của Giáo Hội. Có nghĩa là họ được coi là chịu ràng buộc trong phạm vi chế độ lãnh chúa.

Những bản khiếu nại của nông dân có độ dài khác nhau từ nhiều trang phê phán tỉ mỉ cùng với những đề nghị kèm theo đến chỉ độ chừng ba dòng chữ viết lẫn lộn tiếng Pháp và thổ ngữ Catalan viết từ một thôn làng nhỏ có tên Serrabone ở dưới chân dãy đồi sỏi đá Pyrenees.  Trong những khu quận của thành Troyes, Auxerre và Sens một cuộc phân tích của Peter Jones từ 389 bản khiếu nại của giáo xứ chỉ ra rằng những loại thuế tô và lệ phí trả cho lãnh chúa bị chỉ trích công khai lên tới 40% (Troyes), 36% (Auxerre) và 27% (Sens), bỏ qua một bên các loại than phiền khác về quyền săn bắn và các toà án lãnh chúa. Một điều không thể tránh được, các khiếu nại hỗn hợp  chung do giới tư sản thành thị  viết ra ở cấp khu quận đã cắt bỏ nhiều phàn nàn vùng quê vì cho là quá tủn mủn. Tuy nhiên có tới 64% của 6666 bản khiếu nại ở cấp độ này trên cả nước kêu gọi việc xoá bỏ thuế phí lãnh chúa. Hoàn toàn trái ngược, 84% các khiếu nại của giới quý tộc lại  giữ hoàn toàn im lặng về vần đề này.

Trung tâm điểm của những căng thẳng tại vùng quê là sự va chạm lâu đời trong việc kiểm soát tài nguyên. Như Andrée Corval chứng tỏ, trước năm 1789, việc quản trị và bảo tồn rừng núi luôn luôn  chịu sự căng thẳng lớn lao do áp lực ngày càng gia tăng từ sự gia tăng về  dân số và giá cả gỗ ván và những thái độ buôn bán của những chủ nhân của các rừng tài nguyên. Những bản khiếu nại của các hội đồng giáo xứ quan tâm tới việc bảo tồn tài nguyên, đặc biệt là cây rừng và coi những đòi hỏi quá mức của ngành kỹ nghệ địa phương và các lãnh chúa như những kẻ thù của mội trường địa phương. Đặc biệt tại miền Đông nước Pháp, sự phát triển của nền kỹ nghệ khai thác hầm mỏ xử dụng gỗ làm nhiên liệu là trọng tâm của sự giận dữ của dân quê, chẳng hạn như  đã được chỉ ra trong cái chủ đề được lập đi lập lại rộng rãi trong những khiếu nại cấp giáo xứ ở quanh vùng Amon miền Đông Pháp mà các lò rèn, lò nấu, các hãng xưởng được thiết lập trong vùng Franche-Comté trong phạm vi 30 năm qua bị phá huỷ cũng như những lò cũ mà chủ nhân của chúng không sở hữu những khu rừng đủ lớn để giúp chúng hoạt động 6 tháng một năm. Những khiếu nại khác lại phẫn nộ vì những gì thải ra từ hầm mỏ, hầm chứa phân bón và những ống thoát đổ xuống sông hồ nơi dùng để tưới ruộng vườn hay cho gia súc uống, gây nên bệnh tật và làm cá chết. Từ Brittany,  giáo xứ Plozévet đã bày tỏ một quan điểm chung:

Một kẻ thuê đất nghèo nàn lỡ cắt một khúc cây chẳng đáng giá bao nhiêu, nhưng  có giúp chút ít cho nhu cầu của  nhà  của anh ta hay cho chiếc xe thồ hay cho cái cày thì bị trách phạt và đền bù thiệt hại theo giá của cả nguyên cây. Nếu ai ai cũng có quyền tự trồng cây và đốn cây mà không thể buôn bán thì có lẽ đã không mất quá nhiều cây xanh.”

Nhiều khiếu nại thôn quê cũng nhắm vào cái cố gắng khuyến khích khai quang đất đai của hoàng gia. Những sắc lịnh của hoàng gia năm 1764, 1766 và 1770 đã cho phép giảm thuế cho tất cả các loại thuế nhà nước và thuế thập phân trong 15 năm  cho những vùng đất khai quang và báo cáo hợp lệ cho giới chức thẩm quyền. Mặc dù sắc lịnh quy định rằng luật lệ về việc đặt ngoài vòng pháp luật việc khai phá rừng cây, bờ sông và triền đồi năm 1669 của Colbert vẫn tiếp tục hiệu lực, các giáo xứ phàn nàn một cách đắng cay về sự xoi mòn vì nạn khai quang.  Họ nhắm sự chỉ trích không chỉ đối với những người nông dân của họ mà cả vào những chủ đất quá xấu xa hay thờ ơ trong việc trồng cây lại những khu vực họ khai quang. Thí dụ, tại Quincé và những giáo xứ khác gần Angers, họ đòi hỏi những lãnh chúa và những chủ đất rộng lớn phải đi trồng cây lại. Tại xứ St-Barthélemy cạnh đó, bản khiếu nại kiên quyết yêu cầu tất cả những ai đã  đốn cây phải thay thế vào một cây khác theo như  cáí gương mẫu của người Anh.

Như Markoff đã nhấn mạnh, các bản khiếu nại là một sự chỉ dẫn không hoàn thiện về cái gì xảy ra tại các vùng quê sau đó, không chỉ vì những trường hợp khác nhau khi chúng được phác thảo, mà bởi vì bối cảnh chính trị của toàn quốc và của địa phương thay đổi một khi Đại Hội Đồng đã nhóm họp.  Trong bất cứ trường hợp nào, người dân được tham khảo về những đề nghị cải tổ, không phải về việc họ có muốn  một cuộc Cách Mạng hay không. Người nông dân đòi hỏi về việc thế giới sẽ ra sao, điều mà trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng của họ, chỉ sau đó mới trở thành sự chú trọng đến hành động tập thể. Tại những cộng đồng xa xôi hẻo lánh, sự phụ thuộc kinh tế còn làm họ đắn đo nhận thức về cái giá phải trả một khi cất tiếng về cái đặc quyền của giới quý tộc. Tuy nhiên, một số hội đồng giáo xứ đã rất gan dạ trong sự chỉ trích  trực tiếp thứ thuế thập phân và hệ thống lãnh chúa.  Tại một góc phía Nam của đất nước, cộng đồng nhỏ bé Périllos đã đệ trình vài hàng khiếu nại mang tính chất thù hận không nể nang đối với hệ thống lãnh chúa mà họ tuyên bố tay lãnh chúa trong vùng đối xử với họ như những nô lệ.

Điều rõ ràng nhất là giới quý tộc và thường dân không thể đồng thuận trong việc xếp đặt bầu bán trong Đại Hội Đồng như thế nào. Quyết định của vua Louis vào ngày 05 tháng 12 cho tăng gấp đôi số thành viên đại biểu thuộc tầng lớp thứ ba, trong khi vẫn giữ im lặng trong việc nên bầu bán ra sao tại Versailles chỉ càng nhấn mạnh thêm đến vấn đề quan yếu của quyền lực chính trị.  Có một cam kết được chia xẻ chung trong cả 3 tầng lớp về nhu cầu phải thay đổi và một sự đồng ý chung  trên vô số những lạm dụng đặc biệt trong số máy  nhà nước và Giáo Hội. Tuy nhiên, những chia rẽ trên những vấn đề căn bản về quyền lực chính trị, chế độ lãnh chúa và những đòi hỏi về đặc quyền cơ chế đã không thể nào hoá giải được vào thời điểm các đại biệu đi đến Versailles.

Các sử gia đã tranh cãi rất lâu về việc có hay không những nguyên nhân sâu xa và lâu dài về sự va chạm chính trị dấy lên vào năm 1788 và có hay không những lằn ranh rõ rệt về sự thù ghét mang tính xã hội. Một số người vẫn kiên quyết rằng sự xung đột chính trị chỉ ngắn hạn và có thể tránh được. và họ đã chỉ ra sự cộng tác của các quý tộc và giới tư sản giàu có trong một nhóm ưu tú nổi danh và đoàn kết như những chủ nhân các tài sản, những người nắm giữ hành chánh, những nhà đầu tư và cả đến sự liên quan trong ngành nông nghiệp và kỹ nghệ  chỉ với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, giữa những nhà tư sản này và gíới quý tộc ưu tú  là một tầng lớp quý tộc cai trị với những danh hiệu được kế thừa  mà họ thống trị những cấp bậc  có quyền ưu tiên, chức vụ , giàu có và thân phận cao nhất. Trong khi việc được phong tước là tham vọng của giới tư sản giàu có nhất, việc tìm danh hiệu quý tộc của tầng lớp thứ hai  được đặt ra để điều tra những vụ tuyên bố đạt thân phận quý tộc trong sự bảo vệ ranh giới của họ chặt chẽ. Và theo ngôn ngữ đường thời, ngay trong phạm vi nội bộ của tầng lớp thứ hai cũng đã có sự khinh thường lớn lao đối với những tước vị thấp kém hơn.

Trong khi các cấp bậc cao hơn của giới tư sản và quý tộc liên hiệp với nhau thành một thành phần ưu tú của giới quý tộc, toàn thể tầng lớp thứ hai này không sẵn lòng từ bỏ các tiêu chuẩn ưu tiên của họ cho một trật tự xã hội với những quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng. Những cố gắng cải tổ cơ cấu sau 1774 luôn luôn sụp đổ vì những tảng đá cố chấp này và sự bất lực của nhà vua trong việc điều khiển những thay đổi căn bản tới một hệ thống mà nhà vua là người ở trên đỉnh cao nhất. Những thay đổi xã hội kể từ 1750 đã làm trầm trọng thêm những căng thẳng giữa thành phần tinh hoa này và thành phần giới đặc quyền ưu tiên chiếm đa số nhưng ít nổi danh hơn trong khi dung dưỡng những quan niệm đối nghịch về các nền tảng của các uy lực  chính trị và xã hội trong số các thường dân. Những tên tuổi giả tạo như ‘de Robespierre, Brissot de WArville và d’Anton chẳng lửa bịp được ai.

Những tên tuổi lừng danh tại Paris và cả Versailles như Benjamin Franklin, Thomas Jefferson và John Adams, những đại diện của một chính quyền cộng hoà từ cuộc phổ thông đầu phiếu  cho thấy sự khủng hoảng về niềm tin cậy trong cấu trúc  pháp lý của chế độ cũ. Sự tranh luận trên các điều khoản đặc biệt chuẩn bị cho hội nghị Đại Hội Đồng đã giúp chúng ta chú trọng tới những hình ảnh của các thành  phần quý tộc, tư sản, và giới nông dân về một nước Pháp tái sinh với sự  rõ ràng đầy kịch tính.