by Peter McPhee
Chương
2:Cuộc khủng hoảng của chế độ cũ
Các
nhà viết sử từ lâu vẫn tranh cãi về việc liệu giới tư sản thế kỷ 18 có là một
giai cấp có kiến thức không: nghĩa là liệu Cách Mạng Pháp có phải là công trình
của giới tiểu tư sản quyết tâm lật đổ các tầng lớp có ưu tiên và vì thế đã làm
gia tăng tốc độ chuyển hoá từ thời phong kiến sang thời kỳ tư bản cùng song
hành với sự phát triển mang tính lịch sử của mô hình Mác xít chăng? Những thời kỳ của sự tranh cãi này thường được
phân chia thành những kỳ hạn đơn giản, như về việc liệu những người giàu có nhất
trong giới tư sản có hội nhập vào thành phần cai trị ưu tú không? Giả dụ họ có
tham gia, liệu có thể cho rằng xã hội sẽ
không có cuộc khủng hoảng dài hạn và quá sâu đậm , và như thế cuộc Cách Mạng
Pháp rất có thể sẽ rất ngắn ngủi và bởi thế sẽ chỉ có những hậu quả tương đối
không quan trọng lắm? Có chứng cớ chắc
chắn cho sự biện giải này. Cá nhân các quý tộc đóng vai trò tích cực trong sự
thay đổi về nông nghiệp và hầm mỏ, đôi khi ngược lại với thanh danh của họ, và
các vị vua phong cấp quý tộc cho những cá nhân là những nhà sản xuất và thương
mại thành công nhất, chẳng hạn như Christophe-Philippe Oberkampf một di dân gốc
Bavarian đã thiết lập một nhà máy in vải sợi tại Jouv gần Versailles. Trong số những đối tượng thuộc giới tư sản được
chọn lựa nhất có vào khoảng 70,000 viên chức dễ bị mua chuộc, tăng lên cao tới
khoảng 3700 giới quý tộc được ban cấp từ xuất thân của họ. Một số những tay tư sản trẻ đầy tham vọng này
là những người khác biệt rõ nhất trong việc khởi xướng quân sự chống lại giới
quý tộc sau năm 1789, có lúc họ đã mong ước có thêm tên đệm quý tộc ở trước hay
sau cái tên thường dân của họ, chẳng hạn như: De Robespierres, Brissot de
Warville hay d’Anton. Đó cũng là trường hợp của các nhóm chuyên gia đa dạng làm
thành giới tư sản mà họ đã không coi mình như thành viên của một “giai cấp” liên
kết với nhau trên cả nước qua những vai trò kinh tế xã hội và lợi tức tương tự.
Tuy
nhiên, có lẽ sẽ hữu hiệu hơn để hiểu về đám ưu tú của thành phần tư sản vừa tim cách chen chân vào thế giới quý tộc
trong khi đồng thời đã vô tình lật đổ thế giới ấy. Các tay tư sản giàu có nhất
tìm cách mua tước vị và văn phòng quý tộc vì điều đó mang lại cho họ thêm giàu
có và thần thế trong xã hội. Đây là một sự đáng kinh ngạc, bởi họ đã cố bước
vào một thế giới mà họ không bao giờ nghĩ là nó sẽ có ngày bị tan rã. Chẳng hạn như Claude Pèriez, một chủ nhân của
cơ xưởng sản xuất sợi vải ở Greneble và có một trang trại làm đường ở
St-Domingue đã trả tới một triệu livres để mua nhiều lãnh địa và một lâu đài vĩ
đại ở Vizille vào năm 1780, nơi ông ta xây dựng nhà máy vải sợi. Lợi tức của
các lãnh địa của ông ta, khoảng 37,000 livres mỗi năm gần như tương đương với
cái ộng ta hy vọng có được nếu ông đầu tư vào những thứ khác. Tuy nhiên, ngay cả
khi những người làm tốt trong số các tư sản gắn chặt hy vọng và may mắn của họ trong
việc chen chân vào giới quý tộc thì họ vẫn là những kẻ “bên lề”, không phải chỉ vì những lời tuyên bố thuộc hàng “cao quý” của họ đặt cơ bản trên
những những nền tảng thành tựu khác
nhau, mà còn vì những thành công của họ có tính chất đả phá cái lý do để trở
thành thân phận quý tộc. Đối lại, đám quý tộc tranh đua với giới tư sản bằng cách ra vẻ “cấp tiến”, thí dụ như tham gia vào một hội “những người tự do”, làm
giảm bớt cái độc quyền của tầng lớp họ.
Những
nhà viết sử khác lại tránh xa những câu hỏi về nguồn gốc kinh tế và xã hội của
cuộc Cách Mạng nhưng không hiệu quả và không tồn tại, và xác quyết rằng nguồn gốc
và bản chất của cuộc Cách Mạng, tốt nhất nên được thẩm định qua một sự phân
tích văn hoá chính trị, theo ý của Lynn Hunt là vai trò của các biểu hiệu, ngôn
ngữ và nghi thức trong sự phát minh và truyền đạt hành động cách mạng. Quả thực,
một số sử gia đã tranh luận về khả năng áp dụng các thuật ngữ như “giai cấp” và
“ý thức giai cấp” vào nước Pháp thế kỷ 18. David Garrioch khởi sự phần nghiên cứu
của ông về sự cấu thành giới tư sản Paris qua lời tuyên bố không hề có giai cấp
tư sản tại Pháp thế kỷ 18, nghĩa là, các nhà tư sản đơn lẻ không tự coi mình là
một phần của một giai cấp có tương tự lợi ích và thể diện. Các bộ tự điển ở thời
điểm đó đã định nghĩa những nhà tư sản bởi vì họ không phải là quý tộc hay thường
dân, hay đơn giản dùng từ ngữ “tư sản” như một thuật ngữ phỉ báng khinh rẻ.
Tuy
nhiên, như Sarah Maza trình bày, điều này không có ý nói là không có sự phê
phán giới quý tộc. Ngược lại, những trường hợp nổi bật mà bà nghiên cứu qua việc
xuất bản những ca xử ngắn hạn có ấn bản lên tới 20,000 bản vào những năm 1780s
chứng tỏ rằng có một sự phủ nhận mạnh mẽ và bền bỉ về một thế giới quý tộc truyền
thống được phác hoạ như là thành phần bạo
động, phong kiến, vô đạo đức và như chống đối lại các giá trị của quyền công dân,
sự hợp lý và các lợi ích. Trong một thế giới hậu bán thế kỷ 18 ngày càng thương
mại hoá, các nhà quý tộc đã tranh luận rằng có nên xoá bỏ các luật lệ về sự chê
bai để cho phép các nhà quý tộc tham gia vào hoạt động buôn bán để làm sống lại
các tiện ích của giới quý tộc trong mắt người dân thường hay không. Cái mà ý tưởng này đề nghị là, trong khi
không có một tầng lớp tư sản có kiến thức với một chương trình chính trị, chắc
chắn có một sự phê phán mạnh mẽ về những tầng lớp có đặc quyền và về những đòi hỏi
bị coi là lỗi thời đối với trật tự và
nhiệm vụ xã hội mà họ dựa dẫm.
Nếu
những thay đổi là rõ ràng trong một lối tranh luận công cộng được bày tỏ vào những
năm trước 1789, điều này có thể không mang nhiều ý nghĩa nào đó cho chúng ta biết
về những thay đổi to tát hơn trong xã hội nước Pháp chăng? Hầu hết các nhà viết
sử mới đây đã quay về nghiên cứu điều mà họ gọi là “ nền văn hoá vật chất” của
nước Pháp thế kỷ 18, đó là những đối tượng vật chất và những thực thi của đời sống
kinh tế. Họ không làm điều này để lập lại cái nhận thức Mác Xít cũ rich về đời sống trí
tuệ và văn hoá như những “phản chiếu” của cấu trúc kinh tế. Đúng hơn, họ mong
muốn hiểu biết về ý nghĩa mà con người trong thời đại đó bày tỏ với thế giới của
họ qua cách hành xử cũng như câu chữ. Từ
đó, dường như rõ ràng là có những sự thay đổi liên quan với nhau từ kinh tế, xã
hội và văn hoá, đã làm giảm thiểu những nền móng của quyền lực chính trị và xã
hội vào hậu bán thế kỷ 18. Sự bành trướng giới hạn nhưng rất hiển nhiên của doanh nghiệp tư bản trong kỹ nghệ, nông
nghiệp ở trong vùng nội địa Paris, và trên hết là các ngành thương mại, nối kết với ngành mậu dịch
thuộc địa đã phát sinh ra những hình thức làm giàu và những giá trị không cân đối
với những điều căn bản cơ cấu của chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối, một xã hội trật
tự của sự ưu thế tập đoàn và những yêu sách về chủ quyền của giới quý tộc và của
Giáo Hội. Colin Jones đã đánh giá rằng số lượng giới tư sản gia tăng từ khoảng
700,000 trong năm 1700 lên tới chừng 2.3 triệu năm 1780. Ngay cả trong số những
tiểu tư sản, một nền văn hoá tiêu thụ khác biệt cũng phát đạt, nhìn thấy rõ
ràng trong các bàn giấy, gương lược, đồng hồ và ô dù. Những thập niên sau năm
1750 là thời điểm của một “cuộc cách mạng trang phục”, theo ý của Daniel Roche,
trong đó các giá trị của sự kính trọng,
tư cách và tài sản vững chắc được diễn tả qua quần áo ăn mặc trong tất cả
các nhóm xã hội, nhưng đặc biệt là trong tầng lớp trung lưu. Giới tư sản cũng tự
tạo khác biệt với giới quý tộc và thợ thủ công qua lối ăn uống kiểu tư sản của họ với những bữa ăn nhỏ nhưng thường xuyên hơn và qua sự đơn giản
các hành vi riêng tư về nhà cửa và cách hành xử.
Jones
đã nghiên cứu nhiều biểu hiện của những giá trị thay đổi này từ trong các tạp
chí của thời điểm đó. Vào những năm 1780s, tờ Journal de Santé và những tờ báo không
định kỳ chú trọng đến sức khoẻ và vệ sinh được tung ra, kêu gọi những chương trình hoạch định làm sạch đường phố và
không gian: đó là việc cho rằng sự pha trộn giữa mồ hôi và nước hoa mà bọn quan
lại đội tóc giả trong triều thì cũng không thể dung thứ được như mùi hôi thúi của
đám dân nghèo đô thị với sự tin tưởng vào giá trị chữa bịnh của bụi đất và nước
tiểu. Những tiêu đề của tờ tin tức được
biết đến như tờ báo tường (áp phích) được
xuất bản trong 44 thị trấn và có tới 200,000 người đọc dễ dàng nhận ra họ trở nên “yêu nước” hơn. Điều này thay đổi
từ việc gia tăng xử dụng các từ ngữ như “ý
kiến công chúng, công dân và quốc gia” trong các bình luận chính trị tới việc
quảng cáo trên tờ báo tường của Toulouse vào tháng 12 năm 1788 như: “những viên kẹo trị ho có chất ái quốc cho lợi
ích công”.
Trùng
hợp với sự sự nối khớp về những giá trị như vậy với sự thay đổi kinh tế từ từ,
lâu dài và không đồng đều là một loạt những thách đố về trí tuệ để tạo thành những
hình thức chính trị và tôn giáo mà các nhà viết sử gọi là “sự khai sáng.” Liên hệ giữa thay đổi kinh tế và đời sống trí tuệ lại
ở ngay tâm điểm của lịch sử xã hội về các tư tưởng, và các lý thuyết gia xã hội
và các nhà sử học tiếp tục chia rẽ về tính chất của cái liên hệ đó. Các nhà sử
học, đặc biệt các sử gia Mác Xít cho rằng nguồn gốc của cuộc Cách Mạng gắn bó
chặt chẽ với sự thay đổi kinh tế căn bản, đã từ lâu hiểu về sự khai sáng như một
biểu hiệu của một xã hội trong cơn khủng hoảng, như là biểu cảm của những giá
trị và những bất mãn của tầng lớp trung lưu. Vì vậy, Albert Soboul đã viết vào
năm 1962 rằng: “sự khai sáng quả thực là
học thuyết của giới tư sản.”
Nền
tảng kinh tế của xã hội đang thay đổi và vì vậy các học thuyết cũng được sửa đổi theo. Nguồn gốc trí thức của cuộc
Cách Mạng được tìm thấy trong những tư tưởng triết học mà tầng lớp trung lưu đã
bày tỏ từ thế kỷ 17. Ý thức giai cấp của họ được củng cố thêm nhờ thái độ độc
quyền của giới quý tộc và bởi sự đối nghịch giữa sự tiến bộ của họ về kinh tế
và các vấn đề trí năng và sự thái hoá của họ trong lãnh vực trách nhiệm dân sự.
Một
quan điểm về sự khai sáng như trên cũng được những nhà sử học khác phản biện
khi họ nhắm tới cái lợi ích của nhiều
nhà quý tộc có được trong một triết lý mới. Hơn nữa, trong khi thế hệ các sử
gia trí tuệ già hơn có khuynh hướng nhìn lại từ cuộc Cách Mạng đến những tư tưởng
dường như gây cảm hứng cho nó, chẳng hạn như ‘Hợp Đồng Xã Hội” của Rousseau, những
người khác lại ghi nhận cái lợi ích thời tiền Cách Mạng thay vì chú ý tới tác
phẩm “Héloise tân thời”.
Giống
như sự khai sáng không phải là một cuộc thập tự chinh về trí tuệ đoàn kết mà tự
nó đánh đổ những phán đoán căn bản của chế độ cũ, Giáo hội Công Giáo cũng không
phải là một tảng bia đá vững chắc luôn luôn chống đỡ cho uy quyền của chế độ
quân chủ. Một số các triết gia nổi tiếng
nhất chính là các tu sĩ, thí dụ như Mably, Condillac, Raynal và Turgot. Thêm
vào đó, Dale Van Kley vẫn kiên quyết trong sự quan trọng của di sản tôn giáo
lâu dài về những ý tưởng tự do chính trị của giáo phái Tin Lành và Jansen cùng
những thách đố tới phẩm trật của tôn giáo. Tiến tới nắm 1730, nếu cảnh sát đánh
giá sự ủng hộ cho những chỉ trích của giáo phái Jansen về phẩm trật giáo hội có
tới 3/4 tại các vùng ngoại ô bình dân Paris, thì hậu quả lâu dài của nó sẽ như
thế nào? Mặc dù những cuộc trấn áp giới Jansenist trong suốt thế kỷ, nhưng giá
trị của họ vẫn luôn tồn tại trong số những nhà giàu có, những người đi theo một
luật gia công giáo thời thế kỷ 17 đã có tranh luận rằng Đức Kitô đã không chỉ uỷ
nhiệm cho 12 tông đồ làm các giám mục kế thừa, mà có luôn cả 72 môn đệ hay còn
được gọi là các linh mục đã được thánh sử Luca nhắc đến.
Mặc
dù vậy, có một sự nối kết thiết yếu giữa những chủ đề lớn của nền triết học mới
và cái xã hội nó đang thách thức. Đời sống
trí tuệ sôi động của hậu bán thế kỷ chính là một sản phẩm của xã hội đó. Không
hề có sự trùng hợp rằng những mục tiêu chính yếu và nối kết nhau của việc viết
lên sự phê phán là chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối và chế độ thần quyền.
Diderot đã viết vào năm 1771:
“ Mỗi thế kỷ có một
tinh thần riêng biệt của nó. Tinh thần của thế kỷ chúng ta dường như là sự tự
do. Cuộc tấn công đầu tiên vào sự mê tín dị đoan thật dữ dội và không bị cản trở.
Một khi con người dám tấn công bằng bất cứ hành vi nào vào cái rào cản tôn
giáo, cái rào cản vô cùng ghê gớm và được tôn trọng bậc nhất này, thì không còn
cách nào có thể dừng lại được nữa. Từ thời điểm khi họ chuyển đổi cái nhìn đe
doạ chống lại cái uy lực thần quyền của hoàng gia, giây phút kế tiếp, họ không
quên hướng tới việc chống lại thế quyền. Sợi dây mà nó vừa gìm giữ vừa chế ngự
nhân loại bao gồm 2 sợi: sợi này không thể buông ra mà không làm sợi kia gãy đứt.”
Đối
với hầu hết các triết gia, một sự chỉ trích như vậy bị giới hạn bởi sự chấp nhận
giá trị xã hội của các vị linh mục quản xứ như người canh giữ trật tự và đạo đức
công cộng. Từ khước đối với cái họ nhìn
thấy như là sự dốt nát và mê tín dị đoan của quần chúng, giới trí thức tương tự
quay về các triều vua quang minh như là cách tốt nhất để bảo đảm một sự tự do
hoá đời sống công chúng.
Một
sự giải phóng như vậy cũng cần khuyến khích sự buông lỏng về sáng tạo trong đời
sống kinh tế: đối với các nhà vật lý học như Turgot hay Quesnay, sự tiến triển
thế giới nằm trong sự tự do sáng kiến và trao đổi thương mại (thuyết laisser-faire, laisser-passer).
Qua sự tháo gỡ những chướng ngại vật đối với tự do kinh tế, các bang hội, sự kiểm
soát việc buôn bán ngũ cốc và qua sự khuyến khích cải thiện nông nghiệp, sự thịnh
vượng kinh tế sẽ được tạo ra và sẽ củng cố
sự tiến triển của tự do dân sự. Sự tự do như vậy chỉ dành riêng cho Âu
Châu: với một số ngoại lệ, những triết lý từ Voltaire tới Helvétius đã hợp lý
hoá các trang trại buôn bán nô lệ như sự tự nhiên của lớp người hạ tiện. Trong
khoảng những năm 1716 – 1789 khối lượng
buôn bán qua những hải cảng lớn đã tăng gấp 4 lần với khoảng chừng 2-3% mỗi
năm, một phần là do việc buôn bán nô lệ. Marseilles với 120,000 cư dân năm 1789
đã do 300 đại gia đình thương gia làm bá chủ nền kinh tế. Họ là lực lượng đứng
đằng sau sự Khai Sáng cũng như sự tăng trưởng kinh tế. Năm 1775, một người
trong bọn họ nói rằng:
“Người thương gia
mà tôi nói tới có một thân thế có thể so
sánh với giới quý tộc cổ xưa nhất là một người siêu việt với tư cách lớn trong
quan điểm của ông, thiên tài của ông và doanh nghiệp của ông đã đem vận may của
ông vào sự thịnh vượng của nhà nước…”
Trong
các từ ngữ này, sự khai sáng không có vẻ như một tư tưởng đặt căn bản trên giai
cấp. Nhưng cái gì đã là biến cố xã hội xảy đến cho những người đọc nó? Trong lãnh vực này, đó là lịch sử xã hội của
sự Khai Sáng mà các nhà sử học đã tiến tới gần nhất trong việc đánh giá những
thay đổi văn hoá của những năm 1770s và 1780s. Bắt đầu từ cái cơ sở mà việc xuất
bản là một hoạt động công việc nhiều tầng, Robert Danton, qua sự phân tích một
sổ sách thương mại Thụỵ Sĩ bất chính, đã
khám phá ra cái mà độc giả công chúng muốn.
Trong một chế độ kiểm duyệt nghiêm ngặt, những bộ Bách Khoa tự Điển ấn loát ngoài lề rẻ tiền được nhập lậu từ Thuỵ Sĩ được
bán ra khoảng chừng 25,000 một bộ trong khoảng 1776-1789. Trong khi các
giới chức thẩm quyền nhà nước làm ngơ cho vụ buôn bán những ấn phẩm rẻ tiền từ
bộ Bách Khoa đến sách Thánh Kinh, chính việc buôn bán bí mật những sách vở bị cấm đoán mới tiết lộ nhiều
nhất về toàn thể mạng lưới của con người từ người in ấn, thương lái sách vở, kẻ
bán dạo trên đường phố đến những người tải lậu hàng hoá đều có thể
vướng tù tội để có thể kiếm lợi lộc từ nhu cầu của công chúng. Những bản
mục lục Thuỵ Sĩ hiến cho người đọc ở mọi mức độ tầng lớp của xã hội đô thị một
sự pha trộn mang tính bùng nổ về triết lý và sự thô tục. Những tác phẩm hay nhất
của Rousseau như Helvétius và d’Holbach nằm chen chân với những cuốn đồi truỵ
như “Vệ Nữ trong tu viện hay tôn giáo
trong hoá trang, Cô gái ham vui hay Mối tình của Charlot và Toinette” khởi
đầu với sự diễn tả về một hoàng hậu thủ dâm và những trò dâm loạn của bà với
người em chồng và chế giễu nhà vua:
Đáng thương thay
cho ngài Bệ Hạ,
Ba bốn lần đã bị nhục mạ,
Vì chưng ngài vô cùng bất lực.
Đã không thể làm Antoinette thoả mãn,
Vì điều bất hạnh này ta có thể đoán
Súng đạn của ngài chỉ bé cỏn con
Chắc chẳng lớn hơn một cọng rơm
Mềm như bún và cong queo thấy ớn…
Cái giọng điệu đả phá
của những sách vở này lại cũng đi đôi với những bài ca vè quần chúng. Một viên
thư ký trong một bộ ngành có trách nhiệm quy định buôn bán sách vở đã trình lên
cấp trên của ông để áp đặt sự kiểm duyệt nghiêm khắc hơn: “Người ta cảm nhận rằng những bài ca bán dạo trên đường phố để làm vui
lòng quần chúng đang hướng dẫn họ đến một hệ thống tự do. Đám đông ô hợp thuộc đủ
mọi thành phần vô lại tự choàng cho mình cái áo choàng tầng lớp thứ ba (lao động)
đã không còn chút tôn trọng nào đối với giới quý tộc.”
Giọng
điệu thô lỗ nhưng giả đạo đức của những sách vở và các bài ca vè này chế nhạo
Giáo Hội, quý tộc và hoàng gia cho sự suy đồi và bất lực, cùng lúc đả phá cái
huyền thoại về việc những người được sinh ra để cai trị cũng như có khả năng để
cai trị. Đó không phải là vấn đề mà các con trai gái của vua Louis XVI đã sinh
ra vào 1778, 1781 và 1785. Ngay tại các thành phố vùng miền do các tầng lớp có
ưu tiên thống trị như Toulouse, Besanҫon và Troyes, bộ Bách Khoa Tự Điển và sự
thô tục của văn chương bí mật cũng tìm thấy sẵn thị trường. Arlette Farge tranh
luận rẳng, sau năm 1750, giới lao động bình dân Paris cũng đã tham gia nhiều
hơn vào các cuộc tranh luận công cộng, không phải vì những bài viết của giới
trí thức Khai Sáng đã sàng lọc xuống tới họ, mà là do chính họ đối kháng lại với những tùy tiện độc đoán của hoàng gia.
Sự
Khai Sáng không đơn giản là một phong trào văn hoá tự giác, mà nó tồn tại trong
tiềm thức trong những giá trị chuyển đổi. Vào năm 1700, sự kiểm kê tài sản tại
Paris đã chỉ ra rằng có 13% ngừời có lợi tức là lương bổng sở hữu sách vở, 32%
là viên chức toà án, 26% là giới hiệp sĩ quý tộc. Đến nửa thế kỷ sau, con số là
35%, 58% và 53%. David Garrioch, sử gia
của quận St-Marcel đã chống lại những
di chúc của 2 tay thuộc da giàu có. Nicolas Nouillerot để lại 73 cuốn sách khi
ông ta qua đời năm 1734, tất cả đều về tôn giáo. Jean Auffray qua đời năm 1792
dù giàu có không bằng cũng để lại 500 sách vở gồm có cả những tác phẩm lịch sử
và sách cổ LaTinh cùng một số bản đồ và sổ sách nhỏ. Dĩ nhiên, điều này không nói lên gì nhiều hơn
là sự yêu thích văn chương của 2 cá
nhân, nhưng Garioch coi đó như là điển hình của sự thay đổi về giá trị và ích lợi
trong số các nhà tư sản mà theo họ sự
Khai Sáng là một lối sống.
Lại
còn một cách tiếp cận khác về sự Khai Sáng dựa
mạnh mẽ vào tác phẩm của nhà xã hội học Đức Jurgen Habermas viết năm
1960s trong bối cảnh của lịch sử mới đây của đất nước của ông, kèm thêm số kiến
thức về nước Nga của thời Stalin. Theo Habermas, sự Khai Sáng được hiểu rõ ràng
nhất như sự diễn tả trí thức của nền văn hoá dân chủ chính trị. Những sử gia mới
đây đã mở rộng thêm ý tưởng của Habermas về văn hoá chính trị và không gian
công cộng bằng sự đi quá khỏi lịch sử trí thức ưu tú tới những không gian mà
trong đó các ý tưởng được nối khớp và tranh đua. Thí dụ, khác biệt với tập đoàn
trong thế giới, đặc quyền của các học viện quý tộc trở nên thoáng hơn, các trụ
sở Masonic suy nghĩ tự do, một hình thức tư sản và tính xã giao (của nam giới)
phát triển đáng kể sau 1760, mặc cho những lệnh lạc của nhiều vị Giáo Hoàng đã
không ngăn cản được 400 linh mục gia nhập. Có tới khoảng 210,000 hội viên trong
600 trụ sở vào những năm 1780s. Sự lan tràn của chủ nghĩa tự do kiểu
Freemasonry này một phần là sự biểu lộ của một nền văn hoá tư sản khác biệt bên
ngoài những quy định của giới quý tộc ưu tú. Các doanh nhân, không kể các quý tộc
trong các học viện, chiếm tới 35 đến 50% tại các trụ sở, cũng thu hút các chiến
sĩ, công chức và các nhà chuyên môn. Tại Paris, 74% hội viên Freemasons thuộc tầng
lớp thứ ba (thường dân). Tuy nhiên, Dena Goodman phản biện rằng hội
Freemansonry là không gian của đàn ông ngược lại với thế giới salon (phòng
khách) của Paris nơi mà phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc tạo thành các
không gian có cả nữ tính và sự suy nghĩ tự do.
Như
vậy, cái ý nghĩa thực sự của sự Khai Sáng dường như là một triệu chứng khủng hoảng
của giới cầm quyền và là một phần của cuộc tranh luận chính trị rộng lớn hơn.
Trước năm 1780, các từ ngữ “công dân, quốc
gia, hợp đồng xã hội và ước nguyện chung” được nối kết trong toàn xã hội
Pháp phản biện lại với những từ ngữ cũ như “ thứ bậc, tầng lớp, tập đoàn.”
Daniel Roche đã nhấn mạnh sự quan trọng của sự khủng hoảng văn hoá thật
rõ ràng trong một lãnh vực công cộng của lý do phê phán mới trong những phòng
khách Paris, những cộng đồng chịu học hỏi và những trụ sở theo chủ nghĩa tự do
Mason. “Sự đoạn tuyệt với quá khứ, đã xảy ra trong một vài mối quan hệ: sự kiểm duyệt không đạt đưọc gì và một khía cạnh
của tự do đã được thiết lập qua sự tiêu thụ hàng hoá gia tăng cường độ, nhanh
chóng và quyết liệt. Sự liên hệ phức tạp tương tự giữa người đọc sách công cộng
và người viết hiện hữu trong thế giới nghệ thuật, được minh hoạ tronng sự việc
công chúng tiếp nhận tác phẩm “ Lời thề của Horatìi” của David vào năm 1785, với sự ăn mừng về cách cư xử của
công chúng được nhận thức như đạo đức.
Cái chủ đề của nó vang dội trong số những khán giả thuộc lớp trung lưu
theo trường phái cổ điển. Tác giả của cuốn
“ Trên bức tranh” xuất bản 1762 đã chống lại lối vẽ tranh quy ước và sự suy đồi
của thành phần ưu tú xã hội, khuyến khích sự phê phán nghệ thuật để rút ra những
cân nhắc mang tính luân lý và chính trị.
Thế
giới văn chương sinh động trong những
năm 1780s thực sự là một hiện tượng thành phố. Thí dụ tại Paris, cứ 1200 cư dân
đã có một trường tiểu học và hầu hết nam nữ đều biết đọc chữ. Tại những khu vực
xa xôi quê mùa, nguồn chủ yếu của chữ in
mà chỉ ít người có học thi thoảng đọc to lên tại các buổi tối tập trung là Thánh
Kinh, lịch phổ thông về các ngày lễ và các mùa, và các loại sách thư viện xanh:
Đây là loại sách sản xuất số lượng lớn với bìa giấy, rẻ tiền, giúp cho người
dân quê tạm quên đi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống thường ngày bước vào thế giới kỳ
diệu thời Trung Cổ của các nhân vật siêu nhiên, các vị thánh và các kỳ tích. Trong khi dường như có một sự trần tục hoá về
loại thông tin chứa đựng trong các trang lịch, vẫn không có chứng cớ nào về vấn
đề đọc sách được những người bán hàng
rong truyền tải đến các vùng quê được hấp
thụ với những tư tưởng Khai Sáng,
Dẫu
thế, miền quê nước Pháp vào những năm 1780s đã trải qua khủng hoảng. Tại Montigny, hiệp ước tự do mậu dịch với Anh
Quốc năm 1786 đã trở thành thảm hoạ cho kỹ nghệ vải sợi. Các nhà sản xuất miền
quê cũng bị vùi dập tơi bời vì tiền thuê đất của Giáo Hội tăng gấp ba trong những
năm 1780s và năm 1788 mùa màng bị thất thu. Ít nhất tại Burgundy, sự tranh luận
tại các làng mạc đối đầu với quyền lực lãnh chúa được thấy có dấu hiệu gia tăng
qua những đòi hỏi về tiện ích xã hội, lý lẽ và về cả những ý tưởng công dân. Có rất nhiều chứng
cớ về các quý tộc đã thuê mướn luật sư để kiểm soát hay thắt chặt việc thu tô
thu thuế cho chính xác như một phương cách tăng thêm lợi tức trong thời buổi lạm
phát, điều mà sau đó được gọi là “phản ứng phong kiến.” Thí dụ, vào năm
1786, gia đình Saulx-Tavanes tại Burgundy đã dùng sự thăng tiến của họ lên vị thế công tước để tăng gấp đôi mọi thuế thu
trong một năm, làm sống lại một tập tục đã không được xử dụng từ thế kỷ 13. Sự
đầu tư của họ vào việc cải tiến nông trại,
chưa bao giờ vượt quá 5% các chi tiêu của họ, vào cuối thập niên 1780s
co cụm đến thành con số không, trong khi
phí thuê mướn tăng gấp hai vì giới quý tộc chủ đất tìm cách thoát khỏi nợ
nần. Một nhân viên ngành thuế đi qua vùng Tây Nam nước Pháp đã rất kinh ngạc
khi khám phá ra những nhà quý tộc áp đặt những quyền lợi và thuế phí chưa bao
giờ được biết đến hay đã bị xóa bỏ, chẳng hạn như một cách đo đạc lạ thuờng mà
một thẩm phán quý tộc trong nghị viện thành Toulouse đã ép buộc dùng mỗi khi
ông ta đi mua đất. Phản ứng này đã xảy ra trong bối cảnh một cuộc lạm phát lâu
dài, trong khi giá cả của ngũ cốc vượt quá khỏi lương lậu người lao động, và những
vụ mùa thất thu năm 1785 và 1788 làm giá cả tăng gấp đôi. Cộng chung lại, họ giải
thích sự leo thang xung đột tại các vùng quê: có tới chừng 3/4 trong số 4,400
những cuộc tập trung phản đối có ghi chép lại từ 1720 đến 1788 đã xảy ra sau
năm 1765, hầu hết dưới hình thức bạo loạn đòi thực phẩm và chống lại chủ nghĩa
lãnh chúa.
Điều
này phù hợp với luận án của Tocqueville về một nhà nước gia tăng quyền lực và
can thiệp bừa vào việc làm cho giới quý tộc rối loạn hoạt động bằng cách hạ thấp
việc biện giải lý thuyết về các đặc quyền của họ. Các loại thuế phí đóng cho
lãnh chúa có thể không còn hợp pháp như cái giá mà giới không có đặc quyền phải
trả cho sự cứu trợ, bảo hộ và phụ giúp người nghèo đói từ các lãnh chúa thường
ít khi có mặt tại cộng đồng. Thêm nữa, hệ thống lãnh địa dường như nhỏ hơn một
cái giỏ tiền. Điều đó chính là sự đáp lại của các lãnh chúa đối với sự thách đố
này đến uy quyền và tài sản của họ, cả ở trên thượng và hạ tầng, những cái đã
làm cho họ trở nên háo thắng. Trong khi một số nhà sử học tranh luận rằng chế độ
phong kiến đã thực sự ngừng hiện hữu vào hậu bán thế kỷ 18, cho tới nay họ chỉ
có một điểm chung duy nhất là cái quan niệm giới quý tộc độc nhất vô vị dường
như đã mất sự thích đáng đối với những lãnh chúa vắng mặt mà lợi nhuận của họ cóp
nhặt từ giới nông dân thù ghét họ. Nếu một
chế độ lãnh địa tương đối nhẹ nhàng và không quá hung bạo như tại Roussilon và
Brittany ở 2 đầu đối nghịch của đất nước,
nó lại chẳng là gì cả tại các khu vực miền trung tâm hay tại Languedoc. Nói
chung, chính sự phẫn nộ này về chế độ lãnh địa đã nối kết các cộng đồng nông
thôn lại với nhau chống lại các lãnh chúa của họ.
Nông
dân không chấp nhận quyền lực của những người mà họ được dạy phải chấp hành mà
không được phép hỏi han gì. Đặc biệt tại
vùng bình nguyên Languedoc, như Olwen Hufton và Georges Fournier diễn tả, có chứng
cớ về tâm trạng của một anh chàng trai trẻ thường thách đố uy quyền của các
lãnh chúa, linh mục và các viên chức địa phương và trưng bày ra sự cáu giận bị
tố giác như là một ”tinh thần cộng hoà”
từ giới chức cầm quyền. Cứu xét vài thí dụ từ miền Corbières của xứ Languedoc,
thuộc Đông Nam của Carcassonne: Một người lao công từ Albas đã nói với những
người đồng nghiệp khác khi có vị lãnh chúa đi qua: “Nếu mấy người cũng làm như tôi làm, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ
lấy hết các quyền của cái anh chàng (…) lãnh chúa này.” Sau đó, anh ta nói
với một anh thợ rèn: “ Nếu anh bạn làm giống
tôi làm, anh không chỉ không còn phải giở mũ ra chào trước mặt bọn chúng, mà
anh còn không phải thừa nhận chúng là
lãnh chúa của anh nữa, bởi vì đối với tôi, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ
ngả mũ chào chúng, một lũ cướp của trộm cắp côn đồ…” Tại vùng Termes gần
đó, một anh chàng đưa người anh em rể ra toà trong những năm trước thời Cách Mạng vì ông này đã nói rằng “ anh ta cư xử như một lãnh chúa với giọng
điệu kiêu căng ngạo mạn.” Những người bị các linh mục, quý tộc và những người
địa phương có công ăn việc làm tốt gọi là
“đám theo đuôi tự do”, đám “nổi loạn”, tuyệt đại đa số là những nông dân
trẻ và ba phần tư những biến cố sự kiện mà họ có dính líu tới đều liên quan đến
việc họ từ chối tỏ dấu hiệu phục tùng. Vào năm 1780, những thanh niên vùng
Tuchan đã chế nhạo một tay lãnh chúa địa phương bằng một bài ca khiêu khích bằng
tiếng Occitan, tố cáo ông ta thuộc tay theo váy phụ nữ, liên hệ tới việc mê gái
của hắn.
Georges
Fournier đã nhận thức được những dấu hiệu rõ ràng của sự phát triển cọ xát tại
Languedoc trong nội bộ các cộng đồng thôn quê và giữa họ với các lãnh chúa của
họ vào hậu bán thế kỷ 18. Những hận thù có từ lâu đối với hệ thống lãnh chúa
càng trầm trọng hơn, chẳng hạn như sự cố chấp của đám nghị viện quý tộc thành
Toulouse kiên quyết duy trì quyền lực của đám lãnh chúa chống lại yêu sách của
cộng đồng trong việc được phép đi vào những vùng đồi khô cằn sỏi đá cho đàn gia
súc gặm cỏ. Các thành viên của thành phần ưu tú trong thời điểm đó cũng chắc chắn
rằng liên hệ xã hội đang thay đổi.Vào năm 1776, vào cuối nhiệm kỳ rất dài và
tích cực làm giám mục địa phận Carcassonne, Armand Bazin de Bezons đã cảnh báo
cấp trên của ông rằng:
”Có những lúc tinh
thần bạo loạn và sự thiếu tôn trọng các trưởng lão đã trở nên không thể dung thứ.
Chẳng có phương thuốc nào hiệu nghiệm khi người ta đã tự tin rằng họ phải được
tự do. Cái từ ngữ “tự do” này đã được biết đến cả trong những vùng núi non hẻo
lánh nhất, giờ đã trở nên một loại giấy phép không kiểm soát được. Tôi hy vọng
rằng việc xá tội này sẽ không dẫn đến và cuối cùng phát sinh ra những trái đắng
cho chính quyền.”
Một
cách chắc chắn, đó là một điều bình thường đối với một người ở một vị trí nuối
tiếc cho sự sụp đổ của những khuôn mẫu hành xử đã được lý tưởng hoá, nhưng có
chứng cớ để phán đoán rằng ông ta đã không sai lầm về sự soi mòn lòng tôn kính.
Lời
cảnh báo của Bazin de Bazons được đưa ra trong cùng một năm với sự tuyên bố độc lập của những thuộc địa Bắc Mỹ của nước Anh, dấy
lên việc tham dự của dân Pháp đứng về
phía họ và rồi một cuộc khủng hoảng tài
chánh. Cuộc chiến giành độc lập thành công của Hoa Hỳ có lẽ, bằng cách nào đó,
đã làm dịu bớt đi sự nhục nhã mà Pháp phải
chịu đựng bởi Anh Quốc tại Ấn Độ, Canada
và vùng hải đảo Caribbeans. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho cuộc chiến tới hơn
một tỷ livres, gấp hơn 2 lần doanh thu của quốc gia. Khi vương quốc chao đảo trong cuộc khủng hoảng
tài chánh sau năm 1783, sự thay đổi kinh tế và cấu trúc văn hoá của xã hội Pháp
gây nên những đáp ứng xung đột đối lại lời kêu gọi hỗ trợ của vua Louis XVI.
Cái giá trả cho cuộc chiến gia tăng, bảo tồn một triều đình và hành chánh
mở rộng, vay mượn một món nợ khổng lồ bắt buộc hoàng gia phải tìm kiến
các phương thức để loại trừ sự miễn thuế khoá cho giới quý tộc và khả năng của các nghị viên chống cự lại các
nghị định của hoàng gia. Hành vi thù nghịch cố thủ của hầu hết giới quý tộc đối
với những cải tổ tài chánh và xã hội thường phát sinh từ 2 yếu tố: Một, cái áp lực lâu năm của vương triều làm
giảm thiểu đi sự tự trị của giới quý tộc. Hai, do sự thách thức của giới tư sản
giàu có, đông đảo và quan yếu hơn là của giới nông dân không bị ảnh hưởng tới
những khái niệm của quý tộc về tài sản, đẳng cấp và trật tự xã hội.
Những
cố gắng llên tục của các quan bộ trưởng trong triều nhằm thuyết phục giới quý tộc
trong các buổi họp chịu đồng ý gỡ bỏ những đặc quyền về tài chánh của giai cấp
thứ hai này chìm lỉm trong sự kiên quyết đòi hỏi rằng chỉ có một sự tập họp tất
cả cái đại diện của cả ba thành phần giai cấp trong một Đại Hội Đồng mới có thể
chấp nhận một sự cải tổ như thế. Khởi đầu
vào tháng Hai 1787, Calonne cố thuyết phục về việc thành lập một hội đồng 144
nhà quý tộc. Chỉ có mười người trong số là nằm ngoài giới quý tộc, qua việc đề nghị
những nhượng bộ như việc thiết lập hội nghị tại tất cả vùng miền để đổi lại việc
giới thiệu một thứ thuế đất phổ thông, giảm thiểu thuế vải sợi và thuế muối và
bỏ đi những hàng rào thuế quan nội bộ. Đế nghị của ông ta bị bỏ xó, đặc biệt đối
với các điều khoản về thuế đất. Theo sau sự bãi nhiệm Calonne trong tháng Tư,
người kế nhiệm ông là Loménie de
Brienne, tổng giám mục thành Toulouse cũng thất bại trong việc thuyết phục giới
quý tộc với những đề nghị tương tự và họ đã bị bãi nhiệm vào cuối tháng Năm.
Brienne
theo đuổi chương trình cải tổ đa dạng của ông. Lần này, vào tháng Bẩy, chính
nghị viện quốc hội Paris đã từ chối ghi nhận dự luật thuế đất đồng nhất. Căng
thẳng giữa hoàng gia và giới quý tộc lên tới đỉnh điểm vào tháng Tám với sự lưu
vong của nghị viện đến thành Troyes. Tuy nhiên, sự ủng hộ cho nghị viện của cả
giới tinh hoa và quần chúng phổ thông đã buộc nhà vua kêu gọi trở lại. Vào ngày 28 tháng Chín, nghị viện trở lại
Paris giữa sự ăn mừng của quần chúng. Nguyên tắc thuế phổ thông được bỏ qua một
bên. Cùng thời gian với sự khủng hoảng giữa hoàng gia và các nghị viện lên tới
đỉnh điểm trong tháng Chín 1787, có tin tức loan rằng đoàn quân thứ 13 của Phổ
đã vượt biên giới để hỗ trợ công chúa Hohnzollern chống lại bọn “ái quốc” trong
nước Cộng Hoà Dutch. Những đồ đoán rằng sự
can thiệp của Pháp hỗ trợ bọn ái quốc
đang tới gần bị tan vỡ khi chính quyền loan báo rằng quân đội chưa sẵn
sàng.
Sự
chống cự của nghị viện càng được bày tỏ qua những lời kêu gọi tổ chức một Đại Hội
Đồng, một cơ quan tham vấn bao gồm các đại diện của cả ba tầng giai cấp mà đã
được tổ chức tham khảo lần cuối cùng tận năm 1614. Và tháng 11 năm 1787,
Lamoignon viên bộ trưởng tư pháp đã đọc một bài diễn văn tại nghị viện quốc hội
có mặt hoàng gia tại Paris. Lanoignon, một vị cựu chủ tịch nghị viện nhắc nhở
các đồng viện của ông về sự ưu việt của vua Louis XVI qua sự chối bỏ lời kêu gọi
của họ về một cuộc họp Đại Hội Đồng:
“Những nguyên tắc này, đã được toàn quốc chấp
nhận hoàn toàn, chứng tỏ:
·
Rằng quyền tối thượng trong vương
quốc duy nhất thuộc về nhà vua.
·
Rằng nhà vua chỉ chịu trách nhiệm đối với Thượng Đế cho việc
thực thi quyền tối thượng .
·
Rằng những lợi ìch và nhiệm vụ hỗ
tương của nhà vua và thần dân bảo đảm sự vĩnh cửu của sự kết hợp này.
·
Rằng đất nước có một lợi ích được
ban cấp về những uy quyền của nhà cai trị đất nước không thể thay đổi.
·
Rằng nhà vua là nhà cai trị tối
thượng của đất nước và là người duy nhất.
Cuối
cùng là quyền lập pháp ngự trị trong quyền tối thượng của nhà vua, phụ thuộc
trong đó và không chia xẻ cho bất cứ ai.
Những nguyên tắc này, thưa quý ngài, là những nguyên tắc bất biến của vương quốc
Pháp.
Khi
các vị vua của chúng ta thành lập nghị viện quốc hội, (ông ta nhắc nhở quý đồng
viện), họ mong muốn đề cử các viên chức mà nhiệm vụ của họ là quản trị công lý
và bảo tồn những sắc lịnh của vương quốc và không phải để xây dựng bên trong họ một quyền lực đối đầu với uy quyền
hoàng gia.”
Tuy nhiên, lời
tuyên bố vang dội của Lamoignon về những nguyên tắc của vương quốc Pháp đã
không hù doạ nổi những đối tượng nổi bật nhất chịu khuất phục.
Tháng Năm sau đó,
Lanoignon ấn hành 6 sắc lịnh nhắm mục đích giảm thiểu quyền lực chính trị và tư
pháp của quốc hội làm dấy lên bạo loạn tại Paris và tại thủ phủ các vùng miền. Ngay cả những lợi ích ngầm của giới quý tộc cũng được diễn tả dưới một
thứ ngôn ngữ triết lý: nghị hội của
thành Toulouse khẳng định rằng: “các quyền
tự nhiên của các thành phố áp dụnng cho
mọi nam nhân là không thể xâm phạm, không thể xoá bỏ theo thời gian, vĩnh viễn
tồn tại như tính chất tạo nên nền tảng của chúng.” Loại ngôn ngữ đối nghịch với tuyên bố của
hoàng gia kêu gọi quyền tự trị cho các thủ phủ vùng miền như Bordeaux, Rennes,
Toulouse và Grenoble và những nối kết trực tiếp về sự phụ thuộc kinh tế phát
sinh một sự liên kết đồng minh giữa giới lao động thành phố và các nghị viện địa
phương trong năm 1788. Khi nghị viện
thành Toulouse đi lưu vong vào tháng Sáu 1788 vì sự thách thức của họ đến cuộc
bãi công của sở bộ về quyền tư pháp của quý tộc, đạo quân hoàng gia đã bị đám dân nổi loạn đuổi
ra khỏi thành phố trong cái “ngày của gạch ngói.” Đám hưởng lợi đằng sau giới quý tộc kêu gọi đến
sự tuân thủ “luật tự nhiên, quyền không thể xâm phạm và đất nước” để bảo đảm rằng
thứ liên kết đồng minh đó sẽ không thể tồn tại. Từ một buổi họp của giới quý tộc địa phương
vào tháng Bẩy 1788 ở lâu đài mà Claude Périer đã đạt được tại Vizille, lại có
thêm một lời kêu gọi cho một Đại Hội Đồng, nhưng lần này, lời kêu gọi đòi hỏi tầng
lớp thứ ba (giới thường dân) phải có gấp đôi số đại diện của 2 tầng lớp ở trên
trong sự công nhận sự quan trọng của tầng lớp này trong đời sống của quốc gia.
Cũng trong tháng đó, vua Louis đã quyết định rằng cuối cùng ông sẽ triệu tập một
Đại Hội Đồng vào tháng Năm 1789 và Lamoignon và Brienne từ chức.
Qua tháng Chín
1788, nhà nông học người Anh Arthur Young đã tự tìm thấy tại hải cảng Đại Tây
Dương của thành phố Nantes chỉ 6 tuần sau khi vua Louis XVI tuyên bố triệu tập
Đại Hội Đồng. Là một nhà quan sát và ghi nhận, Young ghi trong bút ký của ông:
“Thành
Nantes đang bốc cháy trong cơn lốc tự do như bất cứ phố thị nào trong nước
Pháp. Những cuộc đàm thoại mà tôi chứng kiến tại đây chứng tỏ sự thay đổi to
tát như thế nào trong tâm trí dân Pháp, thực tình tôi không thể tin là chính
quyền hiện thời có thể tồn tại thêm nửa thế kỷ nữa, trừ phi có những tài năng rõ
rệt và bản lĩnh vượt trội nhất cầm lái.”
Nantes là một hải
cảng nhộn nhịp với 90,000 cư dân mà nó khuyếch trương nhờ sự tăng trưởng nhanh
chóng của việc buôn bán thuộc địa với vùng đảo Caribbean trong suốt thế kỷ
18. Những thương buôn trò chuyện đã làm
cho ông tin về quyền lợi của những “người
có tài năng” tham dự nhiều hơn vào đời sống công cộng. Hơn nữa, sự nhiệt tâm của họ về sự cải tổ tiết
lộ ra nhiều hơn về cuộc khủng hoảng của một nưóc Pháp phong kiến đi quá khỏi sự
va chạm giữa giới quý tộc và nhà vua. Cái nhận thức về chính trị này cũng không
giới hạn chỉ cho giới ưu tú. Ông thợ vá giầy Paris Joseph Charon nhớ lại trong
hồi ký của ông rằng trước những rối ren trong tháng Tám - tháng Chín 1788: ”sự sôi động chính trị đã đi xuống từ những
người ở hàng cao cấp nhất đến hàng thấp nhất qua đủ loại các kênh. Người ta đạt được và chia xẻ những ý tưởng
về hiến pháp công cộng trong 2, 3 năm vừa qua.”
Sự triệu tập một Đại
Hội Đồng đã làm dịu đi những mối căng thẳng trên toàn thể mức độ của xã hội
Pháp và để lộ ra sự phân chia xã hội mà chúng thách đố cái ý tưởng về một xã hội
“giai cấp”. Sự rung động đáng kể của sự tranh luận trong những tháng trước
tháng Năm 1789, một phần là kết quả của việc tạm dừng việc kiểm duyệt báo chí.
Được biết rằng đã có 1519 loại truyền đơn về các chủ đề chính trị được in ấn giữa
tháng Năm và tháng 12 năm 1788. Trong 4 tháng đầu của năm 1789, lại có thêm
2639 ấn bản theo sau. Cuộc bút chiến này tăng thêm cường độ vì tính thiếu quyết
đoán của vua Louis về những phương thức cần phải làm tại điện Versailles. Bị
xâu xé giữa một sự trung thành với một cơ cấu đã được thiết lập về trật tự đẳng
cấp, ưu thế và những đòi hỏi của cuộc khủng hoảng tài chánh, nhà vua đã bị lung
lạc trên cái câu hỏi chính trị thiết yếu về việc có nên để 3 tầng lớp hội họp
riêng rẽ giống như thời 1614, hay để họp chung phòng. Vào tháng Chín, quốc hội Paris
đã ra quyết nghị rằng trong vấn đề này cần đi theo truyền thống. Sau đó, vua
Louis quyết định vào ngày 05 tháng 12 cho tăng gấp đôi số đại biểu của tầng lớp
thứ ba. Điều này chỉ làm tăng thêm sự nghiêm trọng của quyền lực chính trị, bởi
vì nhà vua vẫn không cho biết việc bầu bán sẽ thực hiện như thế nào. Vào tháng
Giêng 1789, Mallet du Pan, một nhà báo Thụy Sĩ đã bình luận: “cuộc tranh luận công cộng đã thay đổi hoàn toàn mục tiêu
chính của nó. Bây giờ nhà vua, sự chuyên chế và Hiến Pháp chỉ còn là vấn đề thứ
yếu và nó đã trở thành cuộc chiến giữa tầng lớp thứ ba và 2 giai cấp kia.”
Ông hoàng Provence, người em trai
của nhà vua đã sẵn sàng chấp thuận gia tăng đại biểu tầng lớp thứ ba, nhưng đứa
em út Artois và những ông hoàng thân thuộc khác bày tỏ sự cố chấp và sợ hãi của
họ trong một hồi ký viết cho Louis tháng 12:
“Ai
có thể nói khi nào những ý kiến vô trách nhiệm sẽ dừng lại? Uy quyền của nhà
vua đã đang bị tra vấn. Quyền lực của 2 tầng lớp của đất nước phân chia nhiều ý
kiến: không bao lâu nữa quyền sở hữu tài sản sẽ bị tấn công, sự bất bình đẳng về
vận mạng sẽ được trình bày như một đối tượng của sự cải tổ. Sự đàn áp các quyền
lợi phong kiến đã được đề nghị cũng như sự hủy bỏ về một hệ thống đàn áp, những
tồn tại của tính man rợ”.
Như vậy, có thể
nào tầng lớp thứ ba ngưng ngay lại sự tấn công các quyền lợi của 2 tầng lớp
trên không? Các quyền mà cũng lâu đời không kém chế độ quân chủ, chúng không thể
thay đổi cũng như Hiến Pháp vậy. Những quyền mà nó tự giới hạn đi tìm kiếm sự cắt
giảm thuế mà nó gánh vác. Như vậy thì 2 tầng lớp trên, những tầng lớp đã được
các công dân tầng lớp thứ ba công nhận thân thiết với họ sẽ, với tấm lòng quảng
đại, có thể từ bỏ những đặc quyền về lợi ích tài chánh của họ và bằng lòng gánh
vác trách nhiệm công cộng trong cái sự bình đẳng hoàn thiện nhất.
Cùng thời điểm đó,
Emanuel Sieyès, một linh mục 40 tuổi thuộc thành phần tư sản đã cộng tác bằng một
trong những tường trình đáng chú ý nhất của ông với tựa đề “Tầng Lớp thứ Ba Là Gì?” Tra khảo nỗi ám ảnh
của giới quý tộc với những đặc quyền đáng ghét của họ, Sieyès đưa ra một lời
tuyên bố vang vọng về khả năng của thường dân. Một điều chắc chắn là Sieyès
không phải là một nhà dân chủ. Ông ta ghi chú rằng phụ nữ và người nghèo không
thể được tín nhiệm trong các trách nhiệm chính trị, nhưng thách thức của ông ta
nối khớp lại sự không khoan nhượng căn bản:
“
Chúng ta hãy tự hỏi ba câu sau:
1. Tầng
lớp thứ ba là gì? Là mọi thứ.
2. Từ
xưa đến
nay trật tự chính tri đã là gì? Chẳng có gì.
3. Vậy
nó đang hỏi gì? Là một điều gì đó…
Như
vậy, ai dám nói rằng tầng lớp thứ ba không chứa đựng mọi thứ cần thiết để xây dựng nên một quốc gia hoàn
toàn? Đó chính là một người mạnh mẽ cường tráng mà một cánh tay vẫn đang bị xiềng
xích trói chặt. Nếu như các giai cấp ưu tiên được tháo bỏ, đất nước sẽ không vì
thế mà xấu đi, trái lại còn tốt hơn. Vậy thì, tầng lớp thứ Ba là gì? Là tất cả
mọi thứ, nhưng là mọi thứ bị trói buộc và đàn áp. Nếu không có các tầng lớp ưu
tiên thì sẽ có gì? Có mọi thứ, nhưng là những thứ tự do và hưng thịnh. Sự lo sợ
nhìn thấy những cảnh ngược đãi được tái tạo gây nên sợ hãi trong giới quý tộc
nhiều hơn sự mơ ước
họ muốn được tự do. Giữa tự do và
một ít những đặc quyền đáng ghét, họ đã chọn đặc quyền. Giờ đây, họ kinh sợ cái
gọi là Đại Hội Đồng mà trước đây họ đã có lần kêu gọi thực thi với
đầy nhiệt tâm.”
Truyền đơn của
Sieyès vang vọng lên cái âm thanh của lòng ái quốc mà giới quý tộc quá ích kỷ để
được ký thác vào một diễn tiến tái tạo đất nước và vì thế có thể bị đào thải khỏi cơ cấu chính
trị. Điều đáng nói ở đây là Sieyès chỉ viết về một tầng lớp ưu tiên, có thể dự
đoán rõ ràng rằng giới tu sĩ bị phân chia
ra giữa các linh mục thuộc tầng lớp quý tộc và các linh mục thuộc giới
thường dân.
Mùa đông khốc liệt
1788-1789 với những cơn bão tuyết trong tháng Bẩy đã phá hoại mùa màng tại khu
vực Paris làm cho các nông dân không còn khả năng đóng thuế. Mùa đông cũng mang
lại bất hạnh tương đồng cho các thành phố khác. Các nhà đương thời đánh giá có tới
80,000 người thất nghiệp tại Paris, và có đến khoảng một nửa hay hơn số đó tại các thành phố kỹ
nghệ vải sợi như Amiens, Lyons. Carcassonne, Lille, Troyes và Rouen. Sự đương đầu
với khủng hoảng tiếp trợ thực phẩm vẫn theo các hình thức truyền thống cũ, tức
là người tiêu thụ tập trung đòi hỏi buộc phải hạ giá cả bánh mì. Tuy nhiên, tại
nhiều khu vực phía Bắc đã có những báo cáo về sự chống đối lại hệ thống lãnh địa,
đặc biệt là các luật lệ về trò chơi và những giới hạn săn bắn. Trên những vùng
lãnh địa của ông hoàng de Conti ở gần Pontoise, không xa Menucourt là mấy, nông
dân và các người làm thuê đã đi săn thỏ bất chấp sự vi phạm vào đặc quyền của lãnh chúa. Tại Artois, nông dân của trên chục
làng xóm tụ tập nhau lại để chiếm giữ sân chơi của bá tước d’Oisy.
Vào mùa xuân 1789,
người dân khắp nước Pháp đòi hỏi xây dựng những đề nghị về một sự cải tổ đời sống
công cộng và để bầu ra những đại biểu cho Đại Hội Đồng. Đặc biệt, những hội thảo
của giáo khu và đoàn thể và các cuộc họp của giới tu sĩ và quý tộc đã tham gia
vào việc biên soạn những “bản danh sách liệt kê những khiếu nại bất mãn”
để hướng dẫn các đại biểu về các khuyến cáo sẽ được trình lên nhà vua. Việc vẽ
vời lên những bản khiếu nại này trong bối cảnh của sự khủng hoảng tồn tại, của
tình trạng chính trị bấp bênh và của sự chao đảo tài chánh đã là thời điểm quyết
định trong sự chính trị hoá quần chúng về những va chạm xã hội. Ít nhất trên bề
mặt, bản khiếu nại của cả 3 tầng lớp đã chỉ ra
một mức độ đáng kể về sự đồng ý, đặc biệt ở mức độ các khu vực. Trước hết,
bất kể là sự diễn tả lòng biết ơn và
trung thành với nhà vua có thành thật
như thế nào đi nữa, bản khiếu nại
của cả 3 tầng lớp cũng cho rằng nền quân chủ chuyên chế đang trong cơn hấp hối,
và cuộc họp của Đại Hội Đồng trong tháng Năm
mới chỉ là bước đầu của một chu kỳ đều đặn. Nếu không có lý do để nghi
ngờ sự thành thật của những cách diễn tả lập đi lập lại về sự biết ơn và thành
tâm đối với nhà vua, thì những cấp bộ trưởng của ông sẽ bị khiển trách vì những
sự bê bối tài chánh và việc lạm quyền của họ.
Nhà vua bị thúc giục phải tiết lộ đầy đủ về tình trạng nợ nần của đất nước
và nhượng bộ cho Đại Hội Đồng (giờ thường
được gọi là Hội Đồng Quốc Gia) kiểm soát sự chi tiêu ngân sách và thuế má.
Thứ hai, có sự đồng
thuận rằng Giáo Hội đang ở trong một nhu cầu cấp thiết phải cải tổ để kiểm soát
những sự lạm dụng trong phạm vi phẩm trật của Giáo Hội và để cải thiện toàn bộ
hàng giáo sĩ. Thứ Ba, trong khối lượng các quý tộc, giáo sĩ và giới tư sản, dường
như đã hiện hữu một sự chấp nhận chung về những nguyên tắc căn bản của sự bình
đẳng tài chính, rằng giới quý tộc và giáo sĩ sẽ từ bỏ, ít ra là một phần nào
đó, việc được miễn trừ đóng thuế của họ. Bản khiếu nại của cả 3 tầng lớp đã đưa
ra sự đồng ý tương tự về nhu cầu cải tổ tư pháp: rằng luật lệ nên được làm đồng
nhất trong cả nước và giữa các vùng miền; rằng ngành quản trị tư pháp nên giản
tiện và ít tốn kém hơn và rằng luật lệ nên nhân bản hơn. Cuối cùng, những lợi
ích về việc mậu dịch nội tại tự do và làm phương tiện chuyển tải và thương mại dễ dàng được chấp nhận rộng
rãi.
Tuy nhiên, trên
nhiều vấn đề căn bản của trật tự xã hội và quyền lực chính trị, những bè phái bảo
thủ đã làm giảm thiểu khả năng của sự cải tổ đã được đồng thuận. Những tương phản
nghiêm trọng nhất của bản khiếu nại nằm trong các quan điểm về thế giới phân cực
của giới nông dân, tư sản và các quý tộc vùng miền. Ngay cả giới tư sản tỉnh nhỏ
cũng nói công khai về một xã hội mới mang đặc tính “mọi nghề nghiệp được mở mang theo tài năng”, về sự khuyến khích
doanh nghiệp, về bình đẳng thuế khoá, về tư tưởng tự do và về sự chấm dứt đặc quyền. Giới quý tộc đáp trả với một viễn ảnh hoang
tưởng về cái thứ bậc ổn định của các tầng lớp xã hội và về những nghĩa vụ, về sự
bảo vệ những miễn trừ cho quý tộc và về việc tân trang sự tự trị chính trị. Đối
với các quý tộc tỉnh lẻ, các quyền lãnh chúa và các đặc quyền quý tộc vô cùng quan trọng không thể thương lượng, và từ ý tưởng này phát sinh sự
cố chấp của hầu hết 270 đại biểu quý tộc được bầu đi đến Versailles. Đối với
các viên chức tự trọng, các chuyên gia và những người sở hữu tài sản, những yêu
sách như vậy là xúc phạm và thiếu nhân cách, phản ánh trong sự kiên quyết lập
đi lập lại trong các tờ khiếu nại ở các
toà án cấp thấp mà những đại biểu thuộc
tầng lớp thứ ba nên từ chối đễ gặp gỡ riêng rẽ. Đối với sự kiên quyết của
dân làng trong việc tẩy chay các thuế phí lãnh địa hay chỉ thanh toán rất ít,
giới quý tộc tái khẳng định niềm tin của họ vào một trật tự xã hội lý tưởng về
một xã hội có tôn ti trật tự và có sự phụ thuộc hỗ tương, về sự công nhận những
hy sinh vĩ đại mà các hiệp sĩ quý tộc đã cống hiến cho đất nước. Nói chung, giới
quý tộc tìm kiếm một vai trò chính trị rộng lớn hơn cho họ trong phạm vi một chế
độ quân chủ lập hiến có giới hạn, với một hệ thống các đại diện mà nó bảo đảm sự ổn định về trật tự xã hội trong việc bảo đảm
chỉ có một vai trò giới hạn cho giới
tinh hoa của tầng lớp thứ ba.
Một mưu kế biện luận
điển hình của giới quý tộc trên cả nước Pháp là sự tuyên bố thật hùng hồn về việc
sẵn sàng gia nhập vào tầng lớp thứ ba trong cái chương trình cải tổ và chấp nhận
chung về những bổn phận đi song hành với với những câu nói tinh tế mang hàm ý
phủ nhận một cách hữu hiệu sự quảng đại ban đầu của họ. Chẳng hạn như cái tầng lớp thứ hai của vùng
Berry hội họp tại Bourges đã bày tỏ niềm vui thích của họ rằng “cái tinh thần
liên kết và đồng thuận mà nó luôn luôn ngự trị giữa ba tầng lớp” nó được biểu lộ
bình đẳng trong các văn bản khiếu nại.
Câu hỏi về việc bầu bán theo cách đếm đầu người trong sự họp bàn của Đại Hội Đồng là điều duy
nhất chia cách tầng lớp thứ ba khỏi 2 tầng lớp trên cao, những người với mong ước
bền bỉ là chủ ý ở đó để ra lệnh. Tuy nhiên, quả thực, đã có hàng loạt các vấn đề
không đạt đưọc thỏa thuận. Thí dụ, tại giáo khu Levet, cách Bourges 18 kms về
phía Nam, nơi có không ít hơn 17 giáo sĩ
và chin giáo dân có quyền lãnh chúa,
trong một cuộc họp với 4 chủ trang trại và 30 người làm thuê đã kiên quyết:
Điều
1: Rằng tầng lớp thứ ba sẽ bỏ phiếu theo mẫu đếm phiếu cá nhân tại hội nghị của Đại Hội
Đồng.
Điều 2: Tất cả các hình thức miễn trừ đều bị xoá bỏ, chẳng hạn như những người
quan tâm đến vấn đề đo đạc, tư hữu, doanh trại quân đội v.v… hoàn toàn sinh ra
từ tầng lớp thứ ba bất hạnh nhất.
Điều
9: Luật pháp lãnh chúa phải bị xóa bỏ và người ta chịu trách nhiệm trước công
lý thay vì tuyên thệ trước mặt một thẩm phán hoàng gia gần nhất.
Như
thành viên của tập đoàn, một bộ phận được
ưu tiên, các linh mục giáo xứ dự kiến một trật tự xã hội được trẻ trung hoá dưới
những điều tốt lành của Giáo Hội Công Giáo độc quyền về đạo đức và thờ phượng.
Tuy nhiên, khi còn là thường dân từ thuở sinh ra, họ cũng đồng
cảm một cách bất hạnh với những nhu cầu của người nghèo về sự mở ra những vị trí thăng tiến cho những người “có tài năng”,
kể cả những vị trí trong phẩm trật Giáo Hội, và những lời kêu gọi cho một hệ thống
thuế phổ quát. Tuy nhiên, không giống với tầng lớp thứ ba, giới giáo sĩ kiên
quyết không chịu đầu hàng độc quyền của họ trong việc thờ phượng và luân lý đạo
đức công.Tầng lớp thứ nhất tại Bourges đã viết đơn khẩn cầu nhà vua ra lệnh rằng tất cả những
người tìm cách truyền bá chất độc nghi ngờ của họ, sự tấn công tôn giáo và những
huyền bí , kỷ cương và tín lý của tôn giáo phải bị coi là kẻ thù của Giáo Hội
và Đất nước, và sẽ bị nghiêm trị; rằng
những nhà in phải bị cấm đoán in ra những sách vở trái nghịch với tôn
giáo. Họ khẳng định rằng: “Giáo Hội Công Giáo La Mã là tôn giáo thực sự duy nhất.” Trong khi bản khiếu nại của
quý tộc được đồng thuận chấp nhận, bản của giới giáo sĩ tiết lộ ra một sự căng
thẳng rõ ràng giữa giới giáo sĩ triều (cai quản giáo xứ) và những giáo khu đại
thánh đường và các tu viện ở các thị trấn.
Hàng giáo sĩ thành Troyes kiên quyết giữ vững sự phân biệt truyền thống
về việc 3 tầng lớp hội họp riêng rẽ, nhưng lại làm một sự miễn trừ tối quan trọng
về vấn đề thuế khóa. Trong vấn đề này, họ hối thúc một hội nghị chung thừa nhận
một loại thuế phân bổ tương xứng cho mọi cá nhân của cả ba tầng lớp.
Những bản khiếu nại
của người dân thường thành thị được trình bày đủ kiểu qua những cuộc hội họp của
các nhà đại công nghệ, những cuộc họp giáo xứ và đôi khi là các cuộc hội họp của
giới buôn bán. Hầu hết dân thợ thuyền lao động thành phố thì quá nghèo để hội đủ tiêu chuẩn tài sản cần thiết đòi hỏi để được tham dự. Tại
Paris, chỉ có 1 trong 5 người trên 25 tuổi là có đủ điều kiện. Giống như giới
nông dân, bản khiếu nại của giới tiểu thủ công tiết lộ một sự trùng khớp về lợi
ích với những lợi ích của giới tư sản trong các vấn đề tài chánh, tư pháp và chính trị, nhưng có sự khác biệt
rõ ràng về các quy tắc kinh tế với việc đòi hỏi một sự bảo vệ chống lại việc cơ
giới hoá và cạnh tranh, và đòi có sự kiểm soát việc mua bán mễ cốc. Đám người
thù hằn giận dữ tại Rouen nhượng bộ : “ Chúng tôi không gọi các nhà tư bản là
đám vị kỷ, họ là anh em của chúng tôi” ,
trước khi họ gọi là :”sự đàn áp bằng máy móc” như vậy: “ sẽ không có sự thi
đua, không có vấn đề về thị trường”. Khiếu nại của dân làng Norman tại
Vatimesnil cũng khẩn cầu nhà vua vì lợi
ích của nhân dân mà từ bỏ các máy dệt vì chúng làm tổn hại đến dân nghèo. Một điều tương tự cũng được giãi bày trong một
trong những khiếu nại hiếm hoi của giới
phụ nữ, của những người bán hoa tại
Paris phàn nàn về những hậu quả của việc loại bỏ các quy tắc mua bán của họ:
“Vô
số các người bán hàng đã không tạo nên được cái kết quả hữu ích mà chúng tôi đã
hy vọng qua sự cạnh tranh. Khi số lượng người tiêu thụ không gia tăng tương hợp với số lượng người sản xuất
, họ sẽ làm tổn hại nhau. Ngày nay, khi
ai ai cũng có thể bán hoa và mở tiệm bán, lợi tức khiêm tốn của họ bị chia xẻ tới một thời điểm họ không còn có thể tồn tại. Bởi vì nghề nghiệp
của họ không thể nuôi sống họ, họ sẽ đi tìm kiếm những nguồn mà họ thiếu thốn
trong sự trụy lạc và những trò dâm đãng tồi bại nhất.”
Sự chân thật của
40,000 bản khiếu nại nông thôn như những lời tuyên bố của thái độ quần chúng
thường bị chất vấn, không chỉ bởi số lượng của các bản khiếu nại tham gia vào
việc phác thảo quá rộng lớn, trong nhiều trường hợp, những bản khuôn mẫu được
lưu truyền khắp miền quê từ thị trấn này qua thị trấn khác, cả khi chúng được
chấp nhận hay thêm thắt vào ở mức độ địa phương. Mặc dù với điều này, chúng vẫn là nguồn không
thể bỏ qua đối với các sử gia. Một tỷ dụ về 1,112 bản khiếu nại, mà trong đó có
748 bản đến từ các cộng đồng thôn quê đã là một đề tài phân tích có chất lượng do
John Markoff và Gilbert Shapiro soạn thảo. Phân tích của họ chỉ ra rằng vào năm
1789, người nông dân lưu tâm về vật chất
nhiều hơn về những gánh nặng mang tính biểu trưng, và rằng họ phần lớn bỏ
qua những biểu tượng của thân phận lãnh
chúa mà nó có ít ảnh hưởng trong lãnh vực vật chất, chẳng hạn như việc được
mang vũ khí ở những nơi công cộng hay được
có những hàng ghế riêng trong các thánh đường. Sự thù hằn với những yêu sách của
lãnh chúa có xu hướng đi song hành với việc phê phán các loại thuế phí họ phải
đóng và những thực thi của Giáo Hội. Có nghĩa là họ được coi là chịu ràng buộc
trong phạm vi chế độ lãnh chúa.
Những bản khiếu nại
của nông dân có độ dài khác nhau từ nhiều trang phê phán tỉ mỉ cùng với những đề
nghị kèm theo đến chỉ độ chừng ba dòng chữ viết lẫn lộn tiếng Pháp và thổ ngữ
Catalan viết từ một thôn làng nhỏ có tên Serrabone ở dưới chân dãy đồi sỏi đá
Pyrenees. Trong những khu quận của thành
Troyes, Auxerre và Sens một cuộc phân tích của Peter Jones từ 389 bản khiếu nại
của giáo xứ chỉ ra rằng những loại thuế tô và lệ phí trả cho lãnh chúa bị chỉ
trích công khai lên tới 40% (Troyes), 36% (Auxerre) và 27% (Sens), bỏ qua một
bên các loại than phiền khác về quyền săn bắn và các toà án lãnh chúa. Một điều
không thể tránh được, các khiếu nại hỗn hợp
chung do giới tư sản thành thị viết
ra ở cấp khu quận đã cắt bỏ nhiều phàn nàn vùng quê vì cho là quá tủn mủn. Tuy
nhiên có tới 64% của 6666 bản khiếu nại ở cấp độ này trên cả nước kêu gọi việc
xoá bỏ thuế phí lãnh chúa. Hoàn toàn trái ngược, 84% các khiếu nại của giới quý
tộc lại giữ hoàn toàn im lặng về vần đề
này.
Trung tâm điểm của
những căng thẳng tại vùng quê là sự va chạm lâu đời trong việc kiểm soát tài
nguyên. Như Andrée Corval chứng tỏ, trước năm 1789, việc quản trị và bảo tồn rừng
núi luôn luôn chịu sự căng thẳng lớn lao
do áp lực ngày càng gia tăng từ sự gia tăng về
dân số và giá cả gỗ ván và những thái độ buôn bán của những chủ nhân của
các rừng tài nguyên. Những bản khiếu nại của các hội đồng giáo xứ quan tâm tới
việc bảo tồn tài nguyên, đặc biệt là cây rừng và coi những đòi hỏi quá mức của
ngành kỹ nghệ địa phương và các lãnh chúa như những kẻ thù của mội trường địa
phương. Đặc biệt tại miền Đông nước Pháp, sự phát triển của nền kỹ nghệ khai
thác hầm mỏ xử dụng gỗ làm nhiên liệu là trọng tâm của sự giận dữ của dân quê, chẳng
hạn như đã được chỉ ra trong cái chủ đề
được lập đi lập lại rộng rãi trong những khiếu nại cấp giáo xứ ở quanh vùng
Amon miền Đông Pháp mà các lò rèn, lò nấu, các hãng xưởng được thiết lập trong
vùng Franche-Comté trong phạm vi 30 năm qua bị phá huỷ cũng như những lò cũ mà
chủ nhân của chúng không sở hữu những khu rừng đủ lớn để giúp chúng hoạt động 6
tháng một năm. Những khiếu nại khác lại phẫn nộ vì những gì thải ra từ hầm mỏ,
hầm chứa phân bón và những ống thoát đổ xuống sông hồ nơi dùng để tưới ruộng vườn
hay cho gia súc uống, gây nên bệnh tật và làm cá chết. Từ Brittany, giáo xứ Plozévet đã bày tỏ một quan điểm
chung:
“Một kẻ thuê đất nghèo nàn lỡ cắt một khúc
cây chẳng đáng giá bao nhiêu, nhưng có
giúp chút ít cho nhu cầu của nhà của anh ta hay cho chiếc xe thồ hay cho cái
cày thì bị trách phạt và đền bù thiệt hại theo giá của cả nguyên cây. Nếu ai ai
cũng có quyền tự trồng cây và đốn cây mà không thể buôn bán thì có lẽ đã không
mất quá nhiều cây xanh.”
Nhiều khiếu nại
thôn quê cũng nhắm vào cái cố gắng khuyến khích khai quang đất đai của hoàng
gia. Những sắc lịnh của hoàng gia năm 1764, 1766 và 1770 đã cho phép giảm thuế
cho tất cả các loại thuế nhà nước và thuế thập phân trong 15 năm cho những vùng đất khai quang và báo cáo hợp
lệ cho giới chức thẩm quyền. Mặc dù sắc lịnh quy định rằng luật lệ về việc đặt
ngoài vòng pháp luật việc khai phá rừng cây, bờ sông và triền đồi năm 1669 của
Colbert vẫn tiếp tục hiệu lực, các giáo xứ phàn nàn một cách đắng cay về sự xoi
mòn vì nạn khai quang. Họ nhắm sự chỉ
trích không chỉ đối với những người nông dân của họ mà cả vào những chủ đất quá
xấu xa hay thờ ơ trong việc trồng cây lại những khu vực họ khai quang. Thí dụ, tại
Quincé và những giáo xứ khác gần Angers, họ đòi hỏi những lãnh chúa và những chủ
đất rộng lớn phải đi trồng cây lại. Tại xứ St-Barthélemy cạnh đó, bản khiếu nại
kiên quyết yêu cầu tất cả những ai đã đốn
cây phải thay thế vào một cây khác theo như
cáí gương mẫu của người Anh.
Như Markoff đã nhấn
mạnh, các bản khiếu nại là một sự chỉ dẫn không hoàn thiện về cái gì xảy ra tại
các vùng quê sau đó, không chỉ vì những trường hợp khác nhau khi chúng được
phác thảo, mà bởi vì bối cảnh chính trị của toàn quốc và của địa phương thay đổi
một khi Đại Hội Đồng đã nhóm họp. Trong
bất cứ trường hợp nào, người dân được tham khảo về những đề nghị cải tổ, không
phải về việc họ có muốn một cuộc Cách Mạng
hay không. Người nông dân đòi hỏi về việc thế giới sẽ ra sao, điều mà trước đây
chỉ có trong trí tưởng tượng của họ, chỉ sau đó mới trở thành sự chú trọng đến
hành động tập thể. Tại những cộng đồng xa xôi hẻo lánh, sự phụ thuộc kinh tế
còn làm họ đắn đo nhận thức về cái giá phải trả một khi cất tiếng về cái đặc
quyền của giới quý tộc. Tuy nhiên, một số hội đồng giáo xứ đã rất gan dạ trong
sự chỉ trích trực tiếp thứ thuế thập
phân và hệ thống lãnh chúa. Tại một góc
phía Nam của đất nước, cộng đồng nhỏ bé Périllos đã đệ trình vài hàng khiếu nại
mang tính chất thù hận không nể nang đối với hệ thống lãnh chúa mà họ tuyên bố
tay lãnh chúa trong vùng đối xử với họ như những nô lệ.
Điều rõ ràng nhất
là giới quý tộc và thường dân không thể đồng thuận trong việc xếp đặt bầu bán
trong Đại Hội Đồng như thế nào. Quyết định của vua Louis vào ngày 05 tháng 12
cho tăng gấp đôi số thành viên đại biểu thuộc tầng lớp thứ ba, trong khi vẫn giữ
im lặng trong việc nên bầu bán ra sao tại Versailles chỉ càng nhấn mạnh thêm đến
vấn đề quan yếu của quyền lực chính trị.
Có một cam kết được chia xẻ chung trong cả 3 tầng lớp về nhu cầu phải
thay đổi và một sự đồng ý chung trên vô
số những lạm dụng đặc biệt trong số máy
nhà nước và Giáo Hội. Tuy nhiên, những chia rẽ trên những vấn đề căn bản
về quyền lực chính trị, chế độ lãnh chúa và những đòi hỏi về đặc quyền cơ chế
đã không thể nào hoá giải được vào thời điểm các đại biệu đi đến Versailles.
Các sử gia đã
tranh cãi rất lâu về việc có hay không những nguyên nhân sâu xa và lâu dài về sự
va chạm chính trị dấy lên vào năm 1788 và có hay không những lằn ranh rõ rệt về
sự thù ghét mang tính xã hội. Một số người vẫn kiên quyết rằng sự xung đột
chính trị chỉ ngắn hạn và có thể tránh được. và họ đã chỉ ra sự cộng tác của
các quý tộc và giới tư sản giàu có trong một nhóm ưu tú nổi danh và đoàn kết
như những chủ nhân các tài sản, những người nắm giữ hành chánh, những nhà đầu
tư và cả đến sự liên quan trong ngành nông nghiệp và kỹ nghệ chỉ với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên,
giữa những nhà tư sản này và gíới quý tộc ưu tú
là một tầng lớp quý tộc cai trị với những danh hiệu được kế thừa mà họ thống trị những cấp bậc có quyền ưu tiên, chức vụ , giàu có và thân phận cao nhất. Trong khi việc được
phong tước là tham vọng của giới tư sản giàu có nhất, việc tìm danh
hiệu quý tộc của tầng lớp thứ hai được đặt ra để điều tra những vụ tuyên bố đạt
thân phận quý tộc trong sự bảo vệ ranh giới của họ chặt chẽ. Và theo ngôn ngữ
đường thời, ngay trong phạm vi nội bộ của tầng lớp thứ hai cũng đã có sự khinh
thường lớn lao đối với những tước vị thấp kém hơn.
Trong khi các cấp
bậc cao hơn của giới tư sản và quý tộc liên hiệp với nhau thành một thành phần
ưu tú của giới quý tộc, toàn thể tầng lớp thứ hai này không sẵn lòng từ bỏ các
tiêu chuẩn ưu tiên của họ cho một trật tự xã hội với những quyền lợi và nghĩa vụ
bình đẳng. Những cố gắng cải tổ cơ cấu sau 1774 luôn luôn sụp đổ vì những tảng
đá cố chấp này và sự bất lực của nhà vua trong việc điều khiển những thay đổi
căn bản tới một hệ thống mà nhà vua là người ở trên đỉnh cao nhất. Những thay đổi
xã hội kể từ 1750 đã làm trầm trọng thêm những căng thẳng giữa thành phần tinh
hoa này và thành phần giới đặc quyền ưu tiên chiếm đa số nhưng ít nổi danh hơn
trong khi dung dưỡng những quan niệm đối nghịch về các nền tảng của các uy lực chính trị và xã hội trong số các thường dân.
Những tên tuổi giả tạo như ‘de Robespierre, Brissot de WArville và d’Anton chẳng
lửa bịp được ai.
Những tên tuổi lừng danh tại
Paris và cả Versailles như Benjamin Franklin, Thomas Jefferson và John Adams,
những đại diện của một chính quyền cộng hoà từ cuộc phổ thông đầu phiếu cho thấy sự khủng hoảng về niềm tin cậy trong
cấu trúc pháp lý của chế độ cũ. Sự tranh
luận trên các điều khoản đặc biệt chuẩn bị cho hội nghị Đại Hội Đồng đã giúp
chúng ta chú trọng tới những hình ảnh của các thành phần quý tộc, tư sản, và giới nông dân về một
nước Pháp tái sinh với sự rõ ràng đầy kịch
tính.