Chương
1: Thưa Hoàng Thượng, ngài không thể đi qua được.
Đó không phải là
một thị trấn đặc biệt. Đó là một thị trấn nắm bên bờ dòng sông Aire nhỏ bé chảy
qua giữa 2 rặng đồi của cánh rừng Argonne thuộc vùng Đông Bắc nước Pháp, nơi có
một cộng đồng nho nhỏ chừng ngàn rưởi nhân mạng với công việc hàng ngày của họ
nếu không mở tiệm buôn bán kinh doanh thì cũng thợ thủ công hay nông dân làm chủ
các trang trại trồng lúa hoặc các vườn cây ăn trái ở các miền quê lân cận. Cũng
giống như hầu hết các thị trấn khác ở khắp nước Pháp, đây là vùng nước xoáy đọng
lại. Con đường độc đạo này chạy từ Phía Nam dẫn vào thị trấn Varennes phải đi qua một cái cổng chào nằm trong khu vực
ngay cạnh ngôi thánh đường nhỏ trước uốn lượn qua thị
trấn trước khi băng qua con sông trên một
cây cầu gỗ nhỏ hẹp. Ở phía Bắc, cách xa thị trấn chừng ba bốn mươi dặm là những
đồn canh Sedan và Montmédy, nơi quân lính biên phòng trú đóng tại khu vực biên
giới , ngày nay trực thuộc biên giới nước Bỉ, nhưng tại thời điểm đó lại là vùng
đất thuộc đế quốc Áo. Thời đó, lòng đường vẫn còn gồ ghề lớm chởm rất xấu do bởi
chỉ được chăm sóc bảo trì sơ sài qua bàn tay của dân quân địa phương. Đối với cư
dân, thị trấn này dường như là cứ điểm văn hoá và thương mại cuối cùng, một nơi
hẻo lánh hiếm khi có chuyện xảy ra.
Thế nhưng, vào cái
đêm 21 tháng Sáu 179, tại đây đã có chuyện lạ xảy ra. Khoảng mưới một giờ đêm, hầu hết cư dân đã
say ngủ, bóng trăng vẫn chưa lên cao, thị trấn ẩn mình trong bóng đêm lặng lẽ. Điểm
sáng duy nhất le lói giữa thị trấn phát ra từ một quán trọ nhỏ có tên Golden
Arm nằm bên lề con đường chính ở một góc công viên nhỏ không xa cổng chào. Trong quán hiện có một nhóm
thanh niên trẻ còn đang ngồi uống rượu chuyện trò tán gẫu. Trên lầu quán trọ cũng
có một cặp khách lạ nghỉ chân qua đêm, một nhóm kỵ binh nói tiếng Đức vừa mới
tiến vào thị trấn và trú đóng trong một tu viện gần đó. Và cuối cùng là 4 anh bạn
trẻ thân thiết địa phương, cả 4 là tình nguyện
viên của một đại đội vệ binh quốc gia. Một trong 4 người là chủ quán trọ
Jean Le Blanc. Ba người kia là thằng em trai Paul của Jean, Joseph Ponsin, con
trai ông giáo làng và Justin George con ông thị trưởng. Lúc này ông bố của
Justin đang đi họp vắng ở tận Paris trong mhiệm vụ là một đại
biểu của Hội Đồng Lập Hiến Quốc Gia. Cả bọn có lẽ đang hăng say thảo luận về những
tin tức mới nhất của cuộc Cách Mạng. Rất có thể họ đang đặt nghi vấn về bọn kỵ
binh Đức, cố tìm hiểu lý do mà bọn này có mặt ở thị trấn vào lúc này. Đồng thời
cũng cố suy đoán vì sao những ngày gần đây đã có quá nhiều cuộc hành quân của binh
lình hoàng gia trong một miền xa xôi hẻo lánh như thế này.
Ngay lúc này bỗng
có 2 người khách lạ tiến vào quán. Người lên tiếng nói là một anh chàng đặc biệt
to lớn và đầy tự tin. Anh tự giới thiệu là Drouet và ngay tức khắc hỏi đám
thanh niên trong đám có yêu nước mãnh liệt không. Khi họ trả lời anh ta rằng đó
là chuyện dĩ nhiên, anh bèn thuật lại một chuyện thật đáng kinh ngạc. Drouet làm quản lý cho một tạm thay ngựa ở tại
Sainte Menehould, một thị trấn cách đây chừng 30 cây số về phía Tây Nam. Chỉ mới
cách đó vài giờ, anh đã nhìn thấy nhà vua và hoàng hậu cùng cả hoàng gia nước
Pháp đang di chuyển trên 2 chiếc xe ngựa. Họ dừng lại thay ngựa ở trạm chuyển
tiếp của anh. Sau khi đã thảo luận với các vị lãnh đạo thị trấn, anh và người bạn
Guillaume, cả hai từng là kỵ binh, bèn cưỡi ngựa đuổi theo đoàn xe của nhà vua
và vừa qua mặt họ khi họ dừng lại nghỉ chân bên lề đường ở ngay đầu thị trấn
Varennes . Anh chắc chắn đó là nhà vua và biết họ đang đi về hướng biên giới nước
Áo. Anh nói rằng vì sự an nguy của đất nước và của cuộc Cách Mạng, hành trình của
nhà vua và hoàng gia phải bị chặn lại.
Một chuyện hoang
tưởng như vậy thật khó để tin tưởng. Nhưng lúc này là thời điểm rất đặc biệt.
Chính cái mãnh lực và cái cá tính sắt đá của Drouet mang đầy tính thuyết phục đã
khuấy động đám thanh niên trẻ hành động. Anh em nhà Le Blanc chạy vội đi đánh
thức các thành viên của vệ binh quốc gia và vài nghị viên của thị trấn sống
quanh đó, rồi họ về nhà trang bị súng ống. Cùng lúc, Drouet , Guillaume và mấy
người kia vội vã chạy ra chặn lối qua cầu bằng một toa xe chất đầy đồ đạc bàn
ghế.
Viên đại biểu hội
đồng đầu tiên đến hiện trường là Jean Baptiste Sauce, công tố viên thị trấn,
người thay mặt viên thị ttrưởng đang đi vắng để điều hành quản lý thị trấn. Anh
trạc 36 tuổi, cao lớn, lưng hơi khòm và hói đầu, vừa buôn bán tạp hoá vừa sản
xuất đèn cầy. Mặc dù trình độ kiến thức có hạn chế với những bài viết đầy lỗi
chính tả, anh ta có một tình yêu nước nồng nàn và một cá tính điềm đạm đặc sắc
khiến mọi người trong thị trấn kính trọng. Sững sờ với tiếng gọi cửa đánh thức
của Le Blanc, anh cũng vẫn cố thay y phục cho thật tươm tất rồi vội vã ra khỏi nhà với chiếc lồng đèn, không
quên dặn hai đừa con trai đi loan báo tin tức đến mọi nhà trong phố bằng lối thông
tin cổ truyền là ra đường la lớn “ cháy, cháy!”. Vào khoảng 11.20pm, Sauce, George, Ponsin,
anh em nhà Le Blanc và 2 người khách từ Sainte Menehould đã tụ họp được chừng nửa
tá những hàng xóm ở quanh quán trọ. Ngay lúc đó, hai chiếc xe ngựa mà Drouet vừa
kể tiến vào dưới vòm cổng chào với 2 người cưỡi ngựa đi hộ tống.
Trong khi vài vệ
binh cầm đuốc soi đường, vài người khác giương súng lên ép buộc 2 người đánh xe
ngựa dừng lại và bước xuống xe. Sauce tiến lại gần chiếc xe đầu, một loại xe nhỏ
2 ngựa kéo. Anh ta nhìn vào bên trong xe
thấy có 2 người đàn bà sợ hãi run rẩy. Họ bảo anh rằng giấy tờ tuỳ thân của họ đang
nằm ở chiếc xe đàng sau. Sauce bèn đi sang chiếc xe đó, một chiếc xe to lớn có
6 ngựa kéo và chất đầy hành lý. Anh ta soi cái đèn lồng trên tay vào cửa sổ xe
và thận trọng nhìn vào phía trong.
Trong xe dường
như có 6 người: 2 đứa trẻ không biết là trai hay gái, 3 người đàn bà ăn mặc kiểu
tầng lớp trung lưu, một người còn trẻ chừng 20 và khá xinh đẹp, 2 người kia lớn
tuổi hơn, và cuối cùng là một người đàn ông dáng đẫy đà với cái mũi to và cái cằm chẻ. Ông ta ăn vận
như một thương gia hay một luật gia. Sauce thì chưa bao giờ có cơ hội nhìn thấy
nhà vua, nhưng anh ta thấy người này có vẻ tương tự như những hình ảnh của hoàng
gia mà anh đã từng gặp.
Mặc cho họ phản
đối, anh vẫn mang hết các giấy tờ thông hành của họ vào quán kiểm tra kỹ lưỡng
hơn. Với nhiều nhân viên của thị trấn tập trung trong đó, anh ta đọc to lên giấy
thông hành của một nữ Bá tước người Nga
danh hiệu phu nhân De Korff đang trên đường đến Frankfurt, được bộ ngoại giao cấp và ấn ký bởi chính nhà vua Louis XVI. Mặc dù
giấy phép thông hành có vẻ rất mù mờ về số lượng người được cấp chiếu khán và mặc
dù lộ trình đi từ Paris qua thị trấn
Verennes này để tới nước Đức có vẻ không hợp lý lắm, nhưng giấy tờ dường như hợp lệ, cho nên Sauce và các đồng sự
tính cho phép họ đi qua. Nhưng Drouet ngưởi đã bỏ nhiều thời gian và công sức cũng
như danh dự trong vụ này nên rất kiên quyết. Anh ta biết rõ là đã nhận ra nhà
vua. Anh cũng nhìn thấy rõ ràng ở tại Sainte Menehould, một tay đại uý thuộc giới
quý tộc đến cạnh chiếc xe giơ tay chào và nhận lệnh như kiểu vâng lệnh một thượng
cấp. Nếu các viên chức ở thị trấn này để cho hoàng gia đào tẩu ra nước ngoài, họ
sẽ mang tội phản quốc. Thêm vào đó, Drouet khẳng định, giấy phép thông hành không
có giá trị bởi không có đồng chữ kí của chủ tịch Hội Đồng Lập Hiến Quốc Gia. Thực
ra, không có yêu cầu phải có chữ ký của chủ tịch Hội Đồng Quốc gia mới hợp pháp, nhưng mọi người chẳng ai biết điều
đó đúng hay sai. Vì vậy, cuối cùng họ quyết định tìm cách câu giờ.
Khách du hành trên
xe được thông báo rằng giờ đã quá muộn để xem xét kỹ lưỡng giấy tờ. Vả lại
trong trời đêm với điều kiện tồi tệ của
con đường trước mặt , tiếp tục hành trình sẽ rất nguy hiểm, nên hãy chờ tới khi
trời sáng. Mặc cho những phản đối giận dữ, đoàn lữ hành gồm 8 người cùng ba đi
hộ tống trong đồng phục mầu vàng bị ép buộc xuống xe và được tạm trú ngay trong
nhà của ông chủ tạp hoá Sauce. Họ được dẫn đi qua con đường đá sỏi từ quán trọ đến gian hàng
của Sauce, leo lên một cầu thang bằng gỗ tới một căn hộ 2 phòng ngủ. Lúc đầu, đoàn
người cồ giữ nguyên tung tích của họ. Một bà trung niên tự xưng là nữ Bá Tước
De Kroff nằng nặc bảo rẳng họ đang rất gấp, cần được đi ngay đến nước Đức. Tuy
nhiên, với sự ám ảnh về việc người đàn ông quá giống hình ảnh nhà vua, Sauce bỗng
nhớ ra rằng có ông Jacques Destez một thẩm phán địa phương đã cưới một bà vợ ở
tại Versailles và vì vậy ông ta đã có nhiều dịp gặp gỡ hoàng gia. Vậy là anh ta
đến thẳng nhà của viên thẩm phán đánh thức ông dậy và đưa ông đến nhà anh. Chỉ
vừa mới bước lên khỏi cầu thang, Destez đã quỳ gập xuống cúi đầu và run rẩy
trong sự xúc động. “Ô Lạy Chúa! Bẩm Hoàng Thượng!” ông la lên.
Thật là một chuyện
thần kỳ, Louis XVI, vua nước Pháp lại có mặt ở thị trấn này, ngay trong phòng
ngủ của người bán tạp hoá. Lại có cả hoàng hậu Marie-Antoinette, cô công chúa
12 tuổi và vị thái tử kế vị ngai vàng lên 5 của họ . Đi cùng còn có
cô em gái Elizabeth của vua cùng
đứa con của bà. Mọi người đứng lặng người. Bà mẹ già của Sauce sau đó lại gần.
Bà quỳ xuống nức nở, chẳng bao giờ bà có
thể tưởng tượng có ngày thấy mặt đức vua và vị thái tử bé nhỏ. Khi nhận ra rằng
tung tích đã bại lộ, Louis XVI giờ cất tiếng: “ Phải, ta chính là đức vua của các
ngươi. Ta đến để sống với các ngươi, hỡi thần dân của ta, làm sao ta có thể bỏ
rơi các ngươi”. Sau đó nhà vua làm một hành vi rất đáng chú ý. Ông bước đến từng
người một trong đám viên chức thị trấn và ôm lấy họ. Sau đó ông kêu gọi họ lắng
nghe chuyện của ông. Ông bị buộc phải trốn khỏi dinh thự ở Paris vì có một đám Jacobins điên cuồng làm cách mạng đã chiếm đoạt thành phố. Tệ hơn nữa, bọn gây náo
loạn này đã liên tục gây nguy hại cho sinh hoạt của hoàng gia. Thật ra, nhà vua bảo họ, ông không có ý định
trốn qua nước Đức mà chi muốn di hành tới khu phố cổ Montmédy gần biên giới. Từ
vị trí xa xôi đó, khuất tầm mắt của lũ phản loạn, ông có thể tập trung để lấy lại
vương quyền và dẹp yên hỗn loạn trong tình trạng vô chính phủ đang ngày càng hung
bạo. Ông nói: “Sau khi bị buộc phải sống trong vòng vây của gươm đao giáo mác,
ta đã di hành về miền quê để tìm lại tự do và bình lặng như các ngươi đang sống
đây. Nếu ta cứ ở lại Paris. Ta cùng hoàng gia sẽ chết.” Nhà vua yêu cầu thị trấn
chuẩn bị thay ngựa cho xe và để hoàng gia lên đường hoàn tất hành trình.
Bị khuất phục bởi
xúc động trong giây lát, lại sợ hãi và bị áp đảo vì cái uy lực của hoàng gia cũng
như hào quang của nhà vua khi họ có mặt ở
nơi này, những người lãnh đạo thị trấn có ý giúp đỡ. Họ nói, nếu cần, họ sẵn sàng
hộ tống đức vua tới tận Monmédy. Ngay khi trời vừa sáng, họ sẽ phái các thành
viên của họ trong lực lượng vệ binh quốc gia đi theo bảo vệ vua. Khi họ quay trở
lại hội trường thị trấn để sắp xếp công việc, đầu óc vẫn còn hoang mang. Làm
sao có thể không tuân lệnh của chính nhà vua,
người đang trị thừa kế một cơ
nghiệp vương quyền đã cai trị nước Pháp hơn tám trăm năm?
Do đó sau khi đã
khuất tầm mắt của vua và đã thảo luận với những người khác, họ bỗng nhận ra sự
phức tạp của tình thế mà họ đang lâm vào. Họ bắt đầu có những suy nghĩ khác.
Cuộc Cách Mạng qua
mùa hè thứ ba
Đối với cư dân thị trấn Varennes, họ không còn giống như những ngày tháng Hai năm trước. Chỉ
trong mấy tháng trước đây, thị trấn đã trải qua một loạt những biến chuyển lạ
thường đã khuấy động đến mọi ngóc ngách của vương quốc và đã làm thay đổi hoàn
toàn cái phương cách mà cư dân nhìn lại chính họ và vị trí của họ đối với thế giới. Vào
tháng Ba 1789, sau một loại các biến cố tưởng như chẳng có liên quan gì đến họ,
cánh đàn ông trong thị trấn tuổi từ 24 trở lên và có đóng thuế được mời tham
gia vào một cuộc bầu cử quốc gia, một sự kiện để chọn ra những đại biểu được bầu
vào Hội Đồng Đại Biểu Tổng Quát, một cơ chế đã không hề được thành lập trong suốt
171 năm qua. Varennes đã là nơi vừa có cuộc bầu cử địa phương, vừa có cuộc bầu
cử khu vực thứ cấp đưa đến việc lựa chọn thị trưởng riêng cho chính họ, một cựu
luật gia, lúc đầu là một đại biểu dự bị và sau đó trở nên đại biểu thực thụ của
Hội Đồng Lập Hiến Quốc Gia. Một điều khác
có lẽ quan trọng không kém là những hội nghị về việc đầu phiếu hồi tháng Ba đã
được yêu cầu ghi lại những bất mãn của người dân mong được thấu đến tai nhà
vua. Mặc dù cái danh sách những bất mãn này của Varennes đã bị thất lạc, nó có
lẽ cũng không khác mấy với cái bản được lưu lại của cái thị xã nhỏ Montfaucon cách
đó chỉ 6 dặm. Trong khi người dân trong
các cộng đồng khắp nước Pháp bắt đầu không tiếc lời ca ngợi việc nhà vua Louis XVI công bố các cuộc bầu cử,
rải rác vẫn có những đòi hỏi có sự thay đổi từ đủ loại các cơ cấu địa phương. Họ
yêu cầu giảm bớt gánh nặng thuế khoá. Họ đòi hỏi mọi công dân kể cả giới tu hành
và giới quý tộc phải trả thuế đồng đều
tuỳ thuộc vào số doanh thu. Họ yêu cầu quyền quản trị được phân tán xuống cho các
hội đồng điạ phưong và ngân sách chi phí
nhiều hơn cho việc giáo dục trẻ em. Nhưng bất cứ điều cá biệt gì được yêu cầu,
hành động mạmh nhất của công dân Varennes cũng như trên khắp vương quốc Pháp cũng
chỉ là phàn ánh một cách có hệ thống về đời sống của họ và những tranh cãi tốt nhất về sự thay đổi, cải thiện hay huỷ bỏ hết đi các cơ
cấu hay các cách thực hiện, cái nào là tốt
nhất; những điều này tự chúng đã là một
biến cố cách mạng. Từ đó dấy lên nhũng kỳ vọng lớn lao cho một sự thay đổi bao
quát mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội và cả các cơ cấu thuộc về giáo hội.
Trong những tháng ngày tiếp theo, cư dân thị trấn
Varennes thep dõi thời sự một cách kinh ngạc khi cái Hội Đồng Đẳng CấpTổng Quát
mà họ giúp bầu lên bỗng biến đổi thành Hội Đồng Lập Hiến Quốc Gia. Tân Hội đồng
này không chỉ lập ra để soạn thảo hiến pháp đầu tiên cho nước Pháp, nó còn khởi
động cho
một thay đổi hoàn toàn những cấu trúc chính trị và xã
hội của Pháp vượt quá xa những đòi hỏi trong danh sách những bất mãn mà họ đưa
ra. Khoảng đầu tháng Tám 1789, các tin tức vể vụ phá ngục Bastille ở Paris và
chiến thắng đè bẹp một âm mưu rõ ràng nhằm phá vỡ cuộc Cách Mạng đã khiến họ tổ
chức một lễ hội ăn mừng lớn vì sung sướng. Có bắn đại pháo chào mừng, pháo bông,
lễ hội tại công trường thị trấn, có cả phát chẩn cho người nghèo giống như những
ngày đại lễ tôn giáo. Lại cũng có phần
biểu diễn ánh sáng phố thị hiếm hoi mà
thành phố kỳ vọng vào ban đêm, mỗi
hộ gia đình sẽ đặt ánh nến hay ánh đèn lồng trước cửa sổ nhà . Đối với một xã hội
chưa quen thuộc với kiểu cách tập trung trưng bày ánh sáng như vậy, quả thực là
một cảnh tượng lạ lùng đáng ngạc nhiên.
Nhưng không phải chỉ là việc ăn mừng những sự kiện từ
mãi ở đâu đâu. Không bao lâu sau đó, cư dân Varennes được yêu cầu tự đi bầu chính
quyền địa phương của họ và tham dự vào việc hàng ngày tham gia vào
việc soạn thảo bộ luật mới. Họ tiến
vào quá trình liên lạc thường xuyên với Hội Đồng Lập Pháp Quốc Gia, tham khảo cố
vấn và thông tin, góp ý với các đại biểu, gửi đi các vận động hành lang và đôi
khi cũng đưa ra những đề nghị riêng của họ trong việc soạn thảo hiến pháp. Sau nhiều thế kỷ dưới sự thống trị của tầng lớp
quý tộc, giới giáo sĩ và hoàng gia trong mọi lãnh vực, ngoại trừ việc riêng gia
đình và vài việc địa phương, giờ này, họ được mời gọi, đúng ra là cưỡng ép,
tham gia vào chính quyền của họ, vào vận mệnh của họ. Một tiến trình như vậy đã
truyền đi một xúc cảm đầy thích thú khi được dính líu vào mọi việc. Điều đó cũng
thấm vào họ một cảm giác mới về bản sắc quốc gia, bản sắc của người dân Pháp
thay thế cho cái thế giới nhỏ hẹp của vùng thung lũng Aire và cánh rừng
Argonnes mà từ trước tới giờ được coi như những điểm chính liên hệ tới căn cước của cư
dân Varennes. Cái phong trào Khai Sáng vĩ đại. cái biến động một là sóng giải
phóng trí tuệ và sự tái thẩm định mà đã nở rộ trong số những nhà ưu văn hoá tú
tại các thành phố lớn của Âu Châu vào thế
kỷ 18, quả thực đã từng là điều gì rất
xa lạ đối với Varennes. Có lẽ chỉ có với sự thay đổi hiến pháp của cuộc Cách Mạng
mà cái châm ngôn về thời đại Khai Sáng của Immannuel Kant : “Dám biết dám hiểu”
mới mang lại một ý nghĩa thực sự cho đại đa số người dân ở các thị xã làng mạc
xa xôi của miền quê nước Pháp. Chỉ có trong cái ý nghĩa tích luỹ đầy tự tin và
sự nhận thức về đất nước là một khối mà chúng ta có thể hiểu được các hành động
của những người giống như Drouet và Sause và cả những nhà lãnh đạo địa phương
khác ở cả khu vực trong suốt cuộc khủng hoảng mgày 21-22 tháng Sáu năm ấy.
Nhưng có 2 sự việc cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc cấu thành yếu tố tâm lý cách mạng của cư dân Varennes trong mùa hè 1791 này.
Vào tháng Tám 1789, để đối phó với sự đe doạ của tình trạng vô chính phủ và có
thể là phản cách mạng sau khi chế độ cũ sụp đổ, thị trấn đã thành lập đội dân
quân đầu tiên của thị xã. Hai đại đội vệ binh quốc gia địa phương được thành lập:
đội “Săn Lùng” và đội “Bộc Phá” với mỗi đội có quân phục riêng, cờ quạt trống kèn
đầy đủ và được chỉ huy bởi các viên sĩ quan do chính họ lựa chọn.. Người ta có
thể phóng đại một cách hiếm hoi về cái cảm giác tự hào của những thanh niên
Varennes, trên dưới ba trăm người tuổi từ 16 đến 50 thực tập việc đi diễn hành
qua phố xá và quanh công viên với một
ban quân nhạc địa phương đi kèm. Lúc đầu,
họ chỉ trang bị một ít loại vũ khí thực sự, loại súng săn hay súng cổ gia truyền.
Nhưng khi trình diện với bộ quân phục mới toanh, màu xanh lục cho đội “săn lùng”
và màu xanh dương đậm cho đội “Bộc Phá”, họ
cảm nhận được ý nghĩa của mục đích và tầm quan trọng của họ. Tâm trạng của
một sĩ quan trong bộ đồng phục, trước đó là một đặc quyền gần như độc nhất của
giới quý tộc, bây giờ ở trong tầm tay của bất cứ ai, ngay cả là anh chủ quán trọ
Jean Le Blanc hay Justin George, con trai viên thẩm phán tầm thường. Quả thực,
có một tay sĩ quan ở trong đội vệ binh của thị Trấn Varennes trong đêm 21 tháng
Sáu này, anh chàng trẻ Etienne Raden sau này đã thuyên chuyển qua quân đội chính
quy trong thời chiến và đã trở nên một vị tướng trong quân đội Napoleon.
Đến mùa xuân và mùa hè 1790, dân quân Varennes đã gia
nhập vào các vệ binh đồng sự ở khắp nơi trong vùng để đi diễn hành trong một loạt
các buổi liên kết hay trong các buổi lễ ’liên bang’. Một trong những buổi này vào ngày 1 tháng Bảy 1790, đã có tới 3000 dân
quân tụ họp tại Varennes nơi họ sinh hoạt xã hội, diễn hành và tuyên thệ trung
thành với tổ quốc. Hai tuần lễ sau đó, vào ngày kỷ niệm đệ nhất chu niên phá ngục
Bastille, Justin George, Etienne Eadet cùng nhiều dân quân Varennes khác đã tiến
về Paris để tham gia vào đại lễ hội liên
bang toàn quốc ở tại cuộc duyệt binh từ Champ de Mars đến tận phía Tây của thủ đô, nơi
bây giờ là công trường tháp Eiffel. Nơi đó, từ phía xa xa, họ đã nhìn thấy vua
Louis XVI đang đọc lời tuyên thệ trung thành của ông với bản tân hiến pháp. Mọi người giờ có thể mường
tượng rõ ràng rằng họ chắc chắn nhớ lại cảnh tượng này khi cũng ông vua đó chỉ một năm sau, có mặt ở trong cái thị trấn bé
nhỏ của họ trên con đường đào tẩu, chối bỏ chính cái hiến pháp mà ông đã thề hứa
bảo vệ nó.
Cái tổ chức thứ hai cũng quan trọng không kém trong
tinh thần cách mạng, không chỉ gói gọn ở Varennes nhưng hầu như khắp nơi trên đất
Pháp là cái tổ chức địa phương phổ biến được gọi là ‘câu lạc bộ’. Có lẽ nhờ ảnh
hưởng của ông bố đại biểu mà Justin Geprge đã giúp thành lập một chi nhánh câu
lạc bộ các thân hữu của Hiến Pháp địa phương vào ngày 25 tháng Ba 1791. Với số lượng hội viên lúc đầu là 44 người, câu lạc
bộ là một trong những hội đầu tiên trực thuộc chi nhánh quản trị mới của vùng
Meuse mà Varennes gắn bó. Ít lâu sau họ liên kết với cánh Jacobins ở Paris, một
tên tuổi lớn nổi tiếng của tổ chức xã hội
những Thân Hữu của Hiến Pháp. Mục đích tự xưng của câu lạc bộ là ủng hộ và tuyên
truyền nhưng đại luật đã được Hội Đồng Lập Hiến Quốc Gia thông qua. Thế nhưng ở
tại Varennes cũng như nhiều nơi trong nước, nhóm Jacobins nhanh chóng tiết lộ một
lời kêu gọi đặc biệt để làm tai mắt cho Cách Mạng chống lại mọi kẻ thù cùng những
kẻ tình nghi.
Vào những tháng trước cuộc khủng hoảng tháng Sáu, câu
lạc bộ đặc biệt tập trung vào việc dò xét giới giáo sĩ địa phương. Một năm trước
đó Hội Đồng Lập Hiến, nay gọi tắt là Hội ĐỒng Quốc Gia đã thông qua một điều luật
tái cơ cấu giáo hội Công Giáo được biết như là hiến pháp về quyền dân sự cho hàng
giáo sĩ. Kể từ đầu năm 1791, các đại biểu đã đòi hỏi tất cả các linh mục có quyền
hạn ban bí tích giải tội phải tuyên thệ chính thức trung thành với Hiến Pháp một
cách tổng quát, và đặc biệt với sự biến
đổi về hàng giáo sĩ. Vào tháng Tư, vị linh mục của thị trấn Varennes, một tu sĩ
dòng Méthain bị cán bộ cách mạng tước bỏ nhiệm vụ sau khi linh mục này từ chối
tuyên thệ. Cố chấp với lập luận rằng nhà nước không có quyền hạn để truất phế ông,
vị linh mục đã ra cử hành thánh lễ trong ngày thứ Sáu tuần Thánh. Cánh Jacobins
và một số dân quân đã tiến vào thánh đường dùng vũ lực đuổi ông ra. Trong khi
chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ các lãnh đạo thị trấn chống lại giới giáo sĩ
hay giáo hội, nhưng họ vô cùng phẫn nộ về chuyện có một người từ chối tham gia
vào Hiến Pháp lại vẫn có quyền dạy bảo
con cháu họ và còn có qiuyền giải tội cho họ. Sự từ chối tuyên thệ của gần non
nửa số giáo sĩ ở những địa phận chung quanh đã làm tăng thêm mối nghi ngờ rằng đang
có những âm mưu phản cách mạng đang tiến hành
hoạt động trong vùng .
Quả thực, hầu như ngay từ khởi đầu cuộc Cách Mạng, cái
chủ nghĩa lạc quan hàng ngàn năm gây ra
bởi những biến cố ở Paris lại hoà lẫn với lo lắng sợ hãi. Theo nhận thức ở vào
thế kỷ 21 này, đôi khi chúng ta quên đi
những mối lo sợ và bất ổn mà con người, với lần đầu tiên trải nghiệm về dân chủ
như thế nào, cho dù có nhiệt tâm ủng hộ đến đâu chăng nữa. Thật khó tin rằng giới
quý tộc và giới tu sĩ của chế độ cũ sẽ không vận dụng những biến cố đó hoặc họ
sẽ không tìm cách đoạt lại quyền hành hay tìm cách trả thù cho những mất mát của
họ. Thật ra, có ba vụ bắt bớ do hốt hoảng đã xảy ra tại Varennes trước tháng Sáu
1791, cả ba đều liên hệ tới sự lo sợ về những kẻ thù tưởng tượng, có lẽ trong sự
trả đũa của các thành phần trưóc đó có ưu tiên. Vào tháng Tám 1789, cư dân thị
trấn đã kinh hoảng với cái tin tức có một đám côn đồ từ miền Bắc tới. Mặc dù
chuyện côn đồ không trở thành sự thật, cái phản ứng tự vệ tiếp theo sau tin đồn
đó đã làm nền tảng cho việc thành lập các đơn vị dân quân đầu tiên của thị trấn.
Chỉ một năm sau đó lại có tin đồn lan ra một cách ghê gớm rằng quân đội đế quốc
Áo đã tiến vào xâm lược và đã có khoảng trên dưới 500 vệ binh của các làng mạc
lân cận đã tụ tập đến Varennes giúp chống
lại. Một làn sóng lo sợ thứ ba lại xảy ra vào tháng Hai 1791 với tin đồn một đám
côn đồ khác đã vượt qua biên giới phía Bắc tràn vào. Mặc dù việc báo động một lần
nữa chứng tỏ là không có nguyên cớ, lời kêu cứu hỗ trợ của thị trấn dẫn tới việc ban quản trị
hành chính trung ương đã tiếp tế một số vũ khí đạn dược có cả tới 4 khẩu đại bác
tới bảo vệ Varennes. Những đợt hoảng hốt tiếp theo lại cung cấp thêm một loạt
những diễn tập được huy động với mục đích
giúp cư dân thị trấn biết cách đối phó
khi sự nguy hiểm thực sự xảy đến. Có lẽ quan trọng hơn cả là sảnh đường của thị
trấn Varennes bây giờ đã có được một trong những kho chứa vũ khí đạn dược lớn nhất
trong cả vùng với súng đạn trang bị đã sẵn
sàng khi cuộc khủng hoảng đêm 21 tháng Sáu này xảy ra.
Ngoài mối lo khuấy rối của bọn côn đồ hay sự xâm lấn
của tụi lính Áo, một mối đe doạ có thể thấy nhãn tiền hơn ngay từ đám binh lính
hoàng gia đang đồn trú tại Varennes và các khu phố lân cận, trong số có nhiều
tay là lính đánh thuê đến từ Đức hay Thuỵ Sĩ. Mối quan hệ quân và dân vẫn thường
căng thẳng từ lâu nay, ngay cả trong những thời điểm ôn hoà nhất. Cư dân địa phương
thường phải gánh chịu việc nuôi ăn ở quân lính miễn phí. Đám lính trẻ thường khét
tiếng ngổ ngáo khi say sỉn hay khi tán tỉnh chọc ghẹo gái địa phương. Việc quân đội trú đóng ở trong các ngôi làng cũng
thường được xử dụng trong các dịp cưỡng ép cộng đồng dân chúng phải đóng thuế đã
quá hạn trả. Kể từ tháng 10 /1789, chính quyền địa phương đã phản đối việc đặt
để các phân đội kỵ binh nói tiếng Đức ở tại Varennes. Những đội quân này đã được
di rời đi vào tháng Hai năm sau, nhưng sáu tháng sau đó, tướng Bouillé, viên tư
lệnh vùng lại mang vào 600 trăm quân bộ binh. Đội quân này chỉ mới trước đó đã
liên quan đến một cuộc đàn áp dã man một phong trào phản đối của những người lính
trơn chống lại đám sĩ quan thuộc tầng lớp quý tộc của họ ở tại thành phố Nancy
gần đó. Đây là cuộc biểu tình phản đối mà rất nhiều người dân yêu nước đã công
khai ủng hộ họ. Sự có mặt của đám lính tàn bạo này ở Varennes đã đưa đến những
căng thẳng tột độ. Tình hình chỉ được xoa dịu khi lãnh đạo thị trấn tìm ra được
một tu viện bỏ hoang ở sát bìa thị trấn làm chỗ trú quân cho họ.
Đám bộ binh rồi cũng rời đi vào tháng Hai 1791. Tuy
nhiên , vào tháng Sáu, tướng Bouillé lại loan báo sẽ gửi khoảng 60 tay kỵ binh
nói tiếng Đức đến trú ngụ. Bây giờ thì chúng ta biết rằng hành động này là một
phần của kế hoạch di chuyển quân với mục đích bảo vệ cho chuyến đào tẩu của nhà
vua, một âm mưu mà Bouillé đã liên quan đến một cách tỉ mỉ. Mặc dù cái phân đội
nhỏ bé này cũng trú đóng tại tu viện trên và
tương đối gây ra không nhiều những quan ngại trước mắt đối với cư dân
Varennes, nhiều người vẫn quan tâm với nghi ngại ngày càng tăng khi nhìn thấy hàng
đoàn xe chở đồ đạc hàng hoá quân sự đi qua phố, và khi nghe những lời đồn đại từ
cửa miệng của quân lính suốt cả khu vực. Thực vậy, các viên chức điạ phương ở
Meuse đã rất bối rối và quan ngại sâu sắc vể những sự di chuyển đó trong thời bình.
Việc đi tới đi lui hết kỵ binh lại đến bộ binh, hôm trước rút đi, hôm sau lại
tiến vào, cứ tiến tới rồi rút lui, thay đổi quân sự mà chẳng có gì đáng cần thiết
hay hữu dụng để làm gì? Vào ngày 20 tháng Bảy, 40 tay kỵ binh hành quân về phía
Tây, được cho là để tiếp nhận một ‘kho tàng’ hay một xe chở lương tiền để phát
lương cho quân? Ngày hôm sau, đứa con trai út của Bouillé cùng một viên sĩ quan
nữa tới thuê trọ qua đêm tại quán trọ Đại Hoàng Gia ở ngay phía Đông của nhánh
sông. Bọn này tuyên bố là đến để chuẩn bị cho một cuộc viếng thăm đột xuất sắp
tới của chính viên tướng.
Những lo sợ của
dân địa phương lan toả ra sao không rõ ràng lắm. Chỉ biết là ngay từ sáng
sớm ngày 21 tháng Sáu, anh chàng Sauce đã tự viết một bức thư chào mừng đám kỵ binh
mới tới như một dấu hiệu thân thiện của thị trấn. Anh cũng có nói chuyện với viên
sĩ quan chỉ huy và được bảo đảm là chẳng có chiến tranh gì đâu. Tuy nhiên, những
người khác trong thị trấn, đặc biệt các thành viên của hội câu lạc bộ Jacobins
lại chẳng tin điều đó. Cái thành kiến chống
lại giới quý tộc ngày càng tăng làm cho viên chỉ huy quý tộc trở thành đối tượng của sự nghi ngờ. Có một
thành viên vô danh của câu lạc bộ đã viết
một loạt thư gửi về ban quản trị của hội ở Bar-le Duc ngay trong buổi
chiều của cuộc khủng hoảng 21 tháng Sáu. Anh ta kể rõ chi tiết tất cả các hoạt
động quân sự rất lạ thường ở một thời điểm hoà bình ở trong thị trấn. Anh ta cũng
không quên tả lại chuyến viếng thăm của Franςois de Gogurlat, một kẻ âm mưu chính khác trong việc sắp xếp kế hoạch
đào tẩu của nhà vua và là người đã tra vấn Sauce về các vệ binh và quan điểm chính
trị của các vị lãnh đạo thị trấn Varennes. Bằng một lối giải thích rất đáng
nghi ngờ, anh ta còn dự đoán rằng rất có thể “kho tàng bí mật” mà đám quân lính
đang bàn tán đó chính là đức vua, có lẽ
sắp bị bắt cóc khỏi Paris bởi một lũ xấu nào đó.
Cũng rất có thể là George và các bạn của anh ta ở quán Golden Arm đang thảo luận về đủ loại các
tin đồn này cộng với nỗi lo ngại về chuyện quan quân thay đổi ngay trong buổi tối Drouet xuất hiện. Nhưng dù trong trường hợp nào, cái thị trấn
Varennes bé nhỏ tầm thường ở gần biên giới
Đông Bắc nước Pháp cũng đã chuẩn bị rất tốt về mọi mặt từ, quân sự, hành chính
đến cả tâm lý để sẵn sàng cho cuộc khủng hoảng ngày 21 tháng Sáu hơn là những kẻ
âm mưu tổ chức cuộc đào tẩu của nhà vua tưởng tượng.
Quân đội và nhân dân
Vào sáng sớm ngày
22 tháng Sáu, ngay cả khi các nhân sĩ trong thị trấn còn đang thảo luận việc phải
làm gì với nhà vua vừa mới tới giữa đêm thì cả thị trấn đã bắt đầu xôn xao náo
động. Thật ra diễn biến chính xác trong đêm ra sao vẫn rất mù mờ. Ai nấy đều cảm
thấy nhầm lẫn; cả hàng đống biến cố đột
ngột xảy ra cùng lúc. Nhưng giờ không phải
là lúc để ghi chép lại, và việc thuật lại những sự kiện trong đêm hôm đó phải căn
cứ theo ký ức của những cá nhân hiện diện trong đêm, đôi khi không ăn khớp với
nhau vì được viết lại sau nhiều ngày, nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm sau đó.
Trong bất cứ trường hợp nào, ngay sau khi 2 đứa con của Sauce chạy đi khắp phố báo động : “cháy, cháy!”, có ai đó đã tức thì
đến kéo chuông nhà thờ ở bên kia sông. Tiếng chuông nhà thờ có một ngôn ngữ riêng
của nó tuỳ theo âm sắc và nhịp điệu, khoan thai để kêu gọi giáo dân đến thánh lễ,
hay loan báo đám cưới hoặc đám ma. Nhưng khi tiếng chuông dồn dập và lập đi lập
lại nhiều lần thì đó là tiếng chuông báo động cho một sự nguy hiểm và khẩn cấp.
Lúc đó mọi người sẽ túa ra đường và hỏi chuyện gì đang xảy ra. Chỉ trong ít phút,
người chỉ huy vệ binh cũng cho đánh thức các tay trống để dóng lên tiếng trống
tụ họp quân. Thế rồi dân quân khoác quân phục vào và nhảy bổ tới với vũ khí
trên tay hay chạy đến thị sảnh ở
trung tâm thị xã để nhận vũ khí.
Khi biết được sự
có mặt của nhà vua, họ vừa tò mò vừa sửng sốt lại vừa lo lắng. Thình lình, ý
nghĩa của việc di chuyển quân và câu chuyện bí mật về cái kho tàng gì đó sắp đến
trở nên rõ ràng. Những người chưa từng có kinh nghiệm về trò ảo thuật của sự có
mặt bất ngờ của hoàng gia bèn nhanh chóng cảm thấy nguy hiểm vì sự trả thù lên
những người đã cả gan ngăn chặn bước đào tẩu của nhà vua, và điều cận kề nhất có
thể xảy ra là sự tấn công của đám quân lính
đang trú đóng trong vùng. May mắn, mối nguy hiểm gần kề nhất là đám kỵ binh người
Đức ở kế bên thị trấn đã không tỏ vẻ gì hăm
doạ. Hầu hết bọn chúng dường như vẫn ngủ nghỉ hay vùi đầu vào ly rượu trong quán và theo dõi một
cách vô hại. Thế nhưng có người thấy viên
chỉ huy bọn họ lên ngựa tiến về bờ sông và
phi ngược hướng Bắc. Lát sau hắn quay lại với anh chàng Bouillé trẻ đi theo. Mọi người hiểu
ra rằng ông tướng Bouillé đã được thông tin và họ tin rằng, chẳng bao lâu nữa, đoàn
quân của ông ta sẽ ở ngay sau lưng họ. Các viên chỉ huy đội dân quân bèn bố trí
các phân đội vệ binh đến trấn những lối vào then chốt của thị trấn để đặt rào cản
hay chướng ngại vật bằng các toa xe hay bất cứ gì tìm được theo cách bố trí của
họ. Họ cũng không quên gửi ngay phát thư
đi cầu viện những làng mạc chung quanh.
Nỗi lo sợ nhất của
họ dường như trở nên cụ thể vào khoảng một
giờ sáng, khi một nhóm chừng 40 tên kỵ
binh, sau lại có thêm một đám nữa, xuất hiện ở
cửa vào mặt Nam của thị trấn. Các tay chỉ huy của chúng, mà cư dân
Varennes sau đó biết được là Goguelat và quận công Choiseul, đã nói chuyện với đám
kỵ binh bằng tiếng Đức, và đám này đáp lại với vẻ ngạc nhiên. Sau đó bọn chúng
bèn tấn công phá rào cản và dùng sống kiếm đẩy dạt đám vệ binh ra tiến vào
trung tâm thị trấn và cuối cùng dừng lại ở vị trí bày binh bố trận ngay trước cửa
nhà của Sauce. Những giây phút kế tiếp thật căng thẳng và đầy bất trắc, gây nên một nỗi lo lắng đầy
kinh hoàng cho mọi người. Đám kỵ binh trên
lưng ngựa với đầy đủ nón sắt áo giáp, súng đạn và kiếm trận trên tay đã cố tình hăm doạ dân chúng. Anh chàng Sauce bước
ra khỏi nhà và phát biểu một bài diễn văn đầy lòng yêu nước trước cửa tiệm của
anh và anh phản đối rằng: ” Đều là những công dân có giá trị và những quân nhân quá can đảm, chúng ta có cần
tham gia vào một cuộc tác chiến chỉ dẫn tới đổ máu…?”. Tuy nhiên, chẳng ai biết
bọn lính đó hiểu biết tiếng Pháp cỡ nào và sự đối đầu giữa vê binh và đám lính
tiếp tục. Cuối cùng, một người, rồi thêm hai viên sĩ quan nữa yêu cầu được nói
chuyện với nhà vua. Khi Goguelat trở lại sau đó và dường như chuẩn bị một cuộc
tấn công, đám vệ binh cũng chuẩn bị chống trả. Họ mang đến 4 khẩu đại bác đặt
ngay ở trên và dưới con đường bọn kỵ binh đang bố trí. Đồng thời họ phóng thanh
yêu cầu nhà cửa 2 bên đường mở cửa ra để
mọi người đang còn trên đường chạy vào ẩn núp, chừa lại bọn lính đơn độc trong
vùng lửa đạn. Nhận ra sự nguy hiểm, Goguelat tự mình tấn công nghĩa quân, ra lệnh
cho họ quay mũi mấy khẩu đại bác ra ngoài. Tuy nhiên, một tay dân quân trong làng
đã rút súng bắn ông ta rơi khỏi lưng ngựa. Viên bá tước ôm vết thương chạy vào
quán trọ Golden Arm. Kẻ bắn ông cũng đi theo xin lỗi rối rít. Những người khác
chạy đi làm việc với đám kỵ binh không còn vị chỉ huy. Sau nhiều giây phút vô cùng
căng thẳng, đồng thời có blếu tặng cho uống rượu miễn phí, họ đã thuyết phục được đám kỵ binh xuống ngựa
và sau đó tỏ ra thân thiện với dân làng và thề sẽ nghe theo các viên chỉ huy của
dân quân địa phương.
Đối với cư dân
Varennes, sự xuất hiện của Goguelat cùng đám kỵ binh đánh dấu một khúc quanh mới
ở nhiều khía cạnh. Qua sự kiện hăm doạ bằng nột hành vi bạo động này, cư dân càng
tin tưởng hơn rằng việc đào tẩu của nhà vua không chỉ đơn thuần là một nỗ lực của
hoàng gia đi lánh nạn cho nhà vua và gia đình, mà có cả một âm mưu to lớn và
nguy hiểm có dính líu đến bọn lính ngoại và có lẽ cả quân đội nước ngoài. Hơn
thế nữa, hiệu quả việc đối phó với khủng hoảng của Sauce, người lãnh đạo thị trấn
thật vô cùng mạnh mẽ. Chỉ mới ít ngày trước, vị bá tước đã thu hút anh bằng những
phát biểu mạnh mẽ về lòng ái quốc trong một báo cáo tổng quát về thị trấn và về
vệ binh quốc gia, ngay cả khi những công dân khác vẫn nghi ngờ tối đa. Bây giờ,
anh chàng chủ tiệm tạp hoá đã ngộ ra rằng anh đã bị một tay quý tộc thao túng,
coi anh như một thẳng ngu ngốc. Sau này anh viết lại: “ Dưới tấm mạng che lòng ái
quốc, Goguelat đã giấu tôi một sự phản quốc bỉ ổi. Tôi chỉ có thể nói lên một sự
căm phẫn sâu xa nhất.” Cái kinh nghiệm đắng cay này có thể đã trở nên then chốt
cho việc Sauce thay đổi thái độ đối với nhà vua.
Dù vậy, toán dân
quân tiếp viện không lâu sau đó đã đến từ khắp nơi. Chừng hơn nửa tiếng sau nửa
đêm, có ai đó đã gửi đi ba bốn viên cảnh sát đến hết làng này đến làng khác vừa
phi ngựa đến vừa chạy vừa hét lên “ cầm vũ khí lên, cầm vũ khí lên”. Ngay sau
khi Sauce gửi điện văn đến Verdun, trung tâm quân sự lớn nhất trong vùng để xin
trợ giúp rằng: “ Xin mau mau đưa quân viện và đại bác đến giúp chúng tôi. Nhà
vua và hoàng gia đang có mặt ở đây.”
Ngay trước khi những người chuyển tin tới, các làng lân cận đã nghe thấy
tiếng chuông nhà thờ vang lên dồn dập và họ đã túa ra đường, với một mệnh lệnh
ngắn ngủi, đám dân quân đã giương cờ gióng trống tiến về Varennes. Tại khu phố
thị Montnlancville nơi chỉ cách chừng 2 dặm phía Bắc, thông địệp đã tới lúc một
giờ sáng. Mặc dù có sự lẫn lộn chưa biết rõ ràng chuyện gì khẩn cấp đến thế,
người phát tin đã nhanh chóng đi sang các làng mạc khác để báo động trước khi
thông điệp được thông hiểu. Cánh đàn ông đã cho lệnh trang bị vũ khí và chừng hơn
trăm người đã chạy bộ tới Varrenes lúc một giờ rưỡi. Khi đã hiểu rõ chuyện ngọn
ngành, họ bèn vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Cũng giống như bao lần huy động
trước, cánh đàn bà và con nít theo chân họ sau đó, đẩy theo các toa xe chứa thực
phẩm và đồ tiếp tế.
Montfaucon, một
làng ở dãy đồi xa xa thuộc vùng Argonne nhận được tin tức khoảng ba giờ sáng. Dân
làng sau này nhớ lại rằng mới buổi chiều tối, mọi sự vẫn còn yên lặng ra sao, và
họ đã sững sờ ra sao khi nhận một thông điệp “không bao giờ ngờ tới và khó có
thể tin được” như thế. Thế nhưng họ cũng ngay lập tức quơ bất thứ vũ khí nào có
thể có được và đi đến Varennes vào lúc rạng sáng. Tin tức tới được Verdun vào
khoảng 5 giờ 15 phút sáng. Lãnh đạo khu vực truyền tin lại khắp phố trước
khi phái đi 400 vê binh cùng binh sĩ chinh
quy Pháp. Triacourt, cách 20 dặm phía Nam, nhận được tin cùng khoảng thời gian.
Autry ở phía Tây của vùng Argonne biết tin khoảng chừng một giờ sau đó. Quả thực,
ngay khi nhận được tin tức khẩn cấp, nhiều cộng đồng đã kéo chuông báo động đồng
thời gửi thêm tin tức cho bạn bè cùng các gia đình trong các thôn xóm hẻo lánh
hay các nông trại làm thành một phản ứng dây chuyền giúp cho tin tức truyền đi
với một tốc độ nhanh chóng đến kinh ngạc. Khi trời sáng, dân quân đã đến
Varenes ở khắp nơi, từ Cuisy, Septsangs
đến Dannevoux và Sivry bên bờ sông Meuse và Damvillers quá khỏi Meuse. Cũng
trong buổi sáng hôm đó, tin tức truyền miệng đã lan tới Saint Dizier ờ cách 45
dặm phía Nam và cả vùng
Chalons-sur-Marne và Reims, ở cách hơn 70 dặm phía Tây. Đến buổi chiều thì Metz
và Thionville ở cùng khoảng cách về phiá
Đông cũng nhận được tin. Tất cả nhanh chóng gửi đến Varennes những đội dân quân có trang bị.
Ngay buổi sáng
ngày 22 tháng Sáu đã có hàng ngàn người tụ họp tại cái thị trấn nhỏ bé này
trong vùng Argonne: vệ binh với súng đạn, nông dân với đủ loại vũ khí tự kiếm
được và đàn bà chuẩn bị đủ mọi thực phẩm và bánh mì cho cánh đàn ông. Mặc dù cũng
có một ít tên vô lại nhân cơ hội lẻn vào nhà cửa cư dân ăn trộm đồ ăn thức uống,
hầu hết mọi người khác đều giữ gìn kỷ luật tốt và sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu mà họ chắc
sắp xảy ra. Có một bô lão quý tộc ái quốc nguyên là vị cựu sĩ quan trong quân đội
hoàng gia cũng có mặt tại hiện trường góp sức tổ chức một hệ thống phòng thủ. Các
rào cản được đặt ra khắp nơi chung quanh chu vi của thị trấn và cây cầu gỗ nằm
giữa thị trấn bị tháo gỡ một phần. Ngay sau khi trời rạng sáng, có thêm 65 kỵ
binh từ phương Bắc đến, nhưng nhân dân lúc này đã sẵn sàng với súng đạn lên nòng
và đám kỵ binh bị buộc đứng chờ bên ngoài thị trấn. Chỉ có đại úy Deslon, viên
sĩ quam chỉ huy của họ được phép vào nói chuyện với nhà vua.
Vận mạng của đất nước
Trong lúc đó, trong
một phiên họp khẩn cấp có cả vài quý tộc và thẩm phán của hội đồng xét xử địa
phương, hội đồng thành phố thật phân vân không biết xử trí ra sao với nhà vua.
Một đám ít người vốn chỉ là chủ tiệm, thương gia hay khá nhất là những luật sư
miệt vườn, tự nhiên thấy họ đang phải gánh một trách nhiệm nặng nề của một toà án
tối cao với vận mạng của cả nước nằm trong tay họ. Sau khi đã tái triệu tập vào
lúc 2 giờ sáng, họ phái anh chủ tiệm hớt tóc Mangin như một sứ giả đi đến báo cáo cho Hội Đồnng
Quốc Gia sự có mặt của nhà vua để yêu cầu cố vấn. Nhưng họ thừa hiểu rằng phải
mất nhiều ngày trước khi họ có được câu trả lời từ Paris và họ thì không thể chần
chờ không quyết định mãi. Lúc đầu họ hứa giúp đỡ hoàng gia tiếp tục hành trình
của họ. Thế nhưng việc có mặt của đám kỵ
binh và cái phong cách hăm doạ hung hãn của đám chỉ huy đòi đưa nhà vua đi bằng
vũ lực đã làm giảm đi đáng kể tinh thần cộng tác và thiện chí của họ, đặc biệt
khi họ nhìn thấy Goguelat trong đám chỉ huy , họ nhận ra ngay cái tiểu xảo và
trò lường gạt của y.
Hơn nữa, qua phản
xạ tự nhiên của họ và qua lời khuyên nhủ kiên quyết của cánh Jacoins cùng những
nhà ái quốc có mặt trong thị trấn, các thành viên hội đồng thị trấn đã đi đến một
kết luận về cái chuyện quái lạ của sự trốn
chạy của nhà vua. Vua Louis nói với họ rằng
ông không bỏ rơi vương quốc và rằng ông sẽ đến ở tại Monmédy nhưng vẫn thực sự
nắm được tình hình. Họ rất ngạc nhiên với
lời kể của nhà vua về tình hình Paris mà nó không giống như những gì họ hiểu biết
qua việc thu thập tin tức từ báo chí và từ các tường trình của viên thị trưởng
của họ. Hầu hết họ đã nghe đến những báo cáo về những tay cố vấn không đáng tin cậy của nhà vua và ông thì dễ
dàng bị bọn họ thao túng tới bất cứ ý định nào của nhà vua. Hậu quả của thị trấn
này của họ sẽ ra sao nếu như sau đó có xác định là nhà vua đã bị hiểu lầm? Liệu
họ có bị tố cáo tội phản quốc như lời của Drouet nói không? Ngay cả khi nhà vua
không vượt qua biên giới, thì sự vắng mặt của nhà vua ở Paris có ý nghĩa gì cho
sự tồn tại của Hội Đồng Quốc Gia và bản tân hiến pháp mà họ ủng hộ nhiệt tình cũng
như ủng hộ nhà vua? Cái viễn ảnh của một
cuộc nội chiến và có lẽ một sự xâm lược của ngoại quốc dường như quá rõ, đặc biệt
đối với một thị trấn như Varennes, nơi luôn bị ám ảnh vì địa hình gần sát biên
giới.
Họ đã đấu tranh
tư tưởng với những câu hỏi trên trong bao lâu, khổ tâm với sự phân vân về lòng
trung thành bị phân tán như thế nào, chúng ta không thực sự biết. Tuy nhiên, một
lúc nào đó, có lẽ vào lúc Sauce gửi lời
kêu gọi yểm trợ đến Verdun, họ rõ ràng đã từ bỏ ý định hộ tống hoàng gia
đến Monmédy và tìm cách câu giờ để chờ những lực lượng hữu hiệu đến tiếp viện để
phòng thủ thị trấn. Dù sao, trong suốt đêm, Sauce và một bộ phận của hội đồng
thấy họ phải trở lại gặp nhà vua và giải thích về sự thay đổi ý định của họ. Thật
là một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Một tay
chủ tiệm chạp phô, một thợ thuộc da và một thẩm phán miệt vườn lại dám thông báo
cho ông vua nước Pháp rằng họ phải từ chối theo lệnh của ông. Họ không thể để
nhà vua tiếp tục hành trình. Thật khó xử khi phải diễn tả ý định đó trước mặt hoàng gia, họ nói với vua về cái cảm giác dịu dàng nhưng lo âu rằng, giống
như là những thành viên trong một gia đình vĩ đại vừa mới tìm lại được người cha thân yêu,
nhưng giờ họ đang lo sợ sẽ lại có thể mất
người cha ấy lần nữa. Họ bảo đảm với vua rằng thần dân rất ngưỡng mộ nhà vua, rằng sức mạnh của ngai vàng của vua luôn ở trong
tim và tên ngài luôn ở trên môi, nhưng nơi cư ngụ chính đáng của vua là ở
Paris, và mặc dù họ sống trong vùng thôn dã, họ vẫn khẩn cầu nhà vua hãy quay về
nơi chốn của ngài.” Họ cũng thêm rằng họ
e là nếu vua vẫn cứ ra đi thì sẽ gây ra những biến cố đổ máu và họ
lên án điều đó vì sự an nguy của đất nước” và cảnh báo rằng sự cứu tế của nhà nước phụ thuộc vào sự hoàn
thành hiến pháp, mà hiến pháp lại đang cần sự trở về của nhà vua để được phê duyệt. Những quyết định này của hội đồng
thị trấn đã làm gảm nhẹ sự cần thiết của nó với lời yêu cầu khẩn thiết của đám đông
bên ngoài gồm đủ mọi thành phần nam phụ
lão ấu đang tập trung trước cửa nhà Sauce hô lớn: “vạn tuế quốc vương, vạn tuế tổ quốc , xin người trở về Paris.”
Lúc đầu, Vua và
hoàng hậu dường như không hiểu, không muốn lắng nghe và vẫn yêu cầu chuẩn bị
người ngựa để họ tiếp tục hành trình. Hoàng hậu Marie-Antoinette thậm chí còn
cho gọi bà vợ của Sauce vào gây ảnh hưởng lên chồng bà, và hứa hẹn rằng cả thị
trấn sẽ hưởng lợi lớn nếu hỗ trợ nhà vua. Theo như cư dân thị trấn nhớ lại, bà
Sauce đáp lại rằng bà thực sự yêu mến hoàng gia, bà cũng yêu chồng, nhưng anh ấy
có trách nhiệm của anh, và bà lo sợ rằng
chồng bà sẽ bị trừng phạt nếu để cho đoàn của vua vượt qua trạm. Một câu chuyện khác, có thể là thật cũng có
thể ngụy tạo rằng vua Louis đã kêu gọi lão già Géraudel, một người đốn củi và cũng
là vệ binh rằng khi nhà vua tái thề hứa là sẽ không có chuyện nhà vua bỏ nước
ra đi mà chỉ mong làm điều tốt cho đất nước mà thôi. Géraudel đã đáp lại rằng:
“Tâu hoàng thượng, thần dân không dám chắc thần dân có thể tin ngài được.” Hai
năm Cách Mạng đã thay đổi mọi thứ.
Khi tay đại úy
Deslon đến trước cửa nhà Sauce lúc 5 giờ sáng, anh ta lập túc hỏi nhà vua anh
ta phải làm gì. Nhưng lúc này, vua Louis dường như đã đầu hàng mặc cho số mệnh.
Vua nói: “Ta chẳng có mệnh lệnh nào cho nhà ngươi cả. Giờ ta là một tù nhân.”
Deslon bèn cố nói chuyện với hoàng hậu và một trong những viên sĩ quan khác bằng
tiếng Đức, ngôn ngữ mẹ đẻ của hoàng hậu, một lần nữa nêu lên một hành động quân
sự để giải vây cho hoàng gia. Thế nhưng những cư dân đang ở trong phòng lập tức
la lớn: “Không được nói tiếng Đức ở đây” và rồi Deslon trở ra ngoài thị trấn với
toán quân của hắn chờ đợi một lệnh lạc mà nó không bao giờ đến. Dù thế nào đi nữa
thì tình hình cũng hoàn toàn biến đổi trong
khoảng một giờ sau đó, khi hai đại diện được Hội Đồng Quốc Gia và vị tướng Lafayette phái đến hôm trước đã tới
được Varennes. Đó là Bayon, một sĩ quan trong đội vệ binh quốc gia ở tại Paris
và Romeuf, một trong những người phụ tá của viên tướng, hai người đang làm nhiệm
vụ đuổi theo nhà vua và hoàng gia mà họ vẫn chưa chắc chắn là hoàng gia đã tự ý đi trốn hay bị bắt cóc. Mệnh lệnh của cả hai
đều chính thức chỉ thị tới tất cả sĩ quan và thành viên của vệ binh quốc gia
hay trong hàng ngũ quân đội. Một khi đại diện thành công trong việc bắt kịp hoàng
gia, các sĩ quan sẽ được giữ lại và dùng mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn
việc bắt cóc hay để ngăn cản hoàng gia tiếp tục hành trình, và rồi báo cáo về cơ
quan lập pháp ngay tức thì. Đối diện với hai mệnh lệnh trái ngược từ hai đại diện
thẩm quyền trung ương của nhà nước cách Mạng, một là ý nguyện của nhà vua, một
là ý định của Hội Đồng Quốc Gia, người dân thị trấn không do dự ngả theo phe hội
đồng. Hai đại diện leo lên tầng hai trong nhà Sauce và đưa sắc lịnh đó cho vua và hoàng hậu.
Marie-Antoinette tỏ ra giận dữ và khinh bỉ: “Thật là vô lễ phạm thượng!” Và bà
quăng sắc lệnh xuống sàn. Vua Louis thì tỏ vẻ thờ ơ nhưng đầy vẻ buồn thảm chỉ
nói: “ Nước Pháp không còn vua nữa.”
Thực ra, Hội Đồng
Cách Mạng chỉ khẳng định một điều là hoàng gia phải bị chặn lại. Thế nhưng cư dân
Varennes không hề nghi ngờ về việc hoàng gia phải được đưa về Paris ngay tức khắc.
Ngoài đòi hỏi theo đúng hiến pháp, nhà vua và Hội Đồng cũng cần giữ sự gần gũi
thân mật, nên mọi người rất lo lắng về tình hình quân sự địa phương. Họ vẫn đang
chờ đợi một cuộc tấn công từ ông tướng Bouillé và họ chỉ cầu mong là thị trấn của
họ sẽ được để yên nếu như nhà vua được chuyển đi nơi khác. Vì vậy vào lúc 7.30
sáng khi mặt trời đã lên cao và thời tiết bắt đầu nóng bức, cả hai phía hội đồng thị trấn và phía hoàng gia đều mệt nhoài vì một
đêm mất ngủ, 2 cỗ xe ngựa quay đầu và lại chui qua vòm cổng chào của thị trấn, quay ngược lại và
ra khỏi thị trấn. Được hộ tống bởi hàng ngàn vệ binh quốc gia, nhà vua và cả hoàng
gia bắt đầu một hành trình dài trở lại
Paris.
Cái đêm nhà vua
bất ngờ xuất hiện trong một thị xã nhỏ bé ở vùng Đông Bắc nước Pháp có thể là một trong những giây phút đầy kịch tính và
cảm động nhất trong toàn bộ cuộc Cách Mạng. Đối với cư dân thị trấn, trải nghiệm
trong đêm đó không thể nào quên và trong một vài trường hợp, nó đã thay đổi
nguyên vẹn đời sống của họ. Drouet bỗng nhiên thấy mình được bầu chọn vào Nghị
Hội Toàn Quốc, phần lớn nhờ vào hành động của anh trong đêm đó. Sauce bị những
kẻ trung thành cuồng tin với hoàng gia theo dõi trong nhiều năm trời vì họ cho
rằng anh là hiện thân của tội ác. Vợ anh
có lẽ té ngã chết khi bà cố ẩn núp dưới
một cái giếng khi một toán quân ngoại xâm tiến vào năm 1792. Quả thực, toàn thị
trấn thỉnh thoảng đã bị nhiều nhóm phản cách mạng hăm doạ huỷ diệt. “Varennes,
thị trấn thảm sầu, một nhà tiên tri về ngày tận thế viết, đống hoang tàn đổ nát
của ngươi chẳng bao lâu nữa sẽ bị cày xới nát trên mặt đất.” Ngược lại, các nhà
ái quốc từ khắp nơi trên đất Pháp đã gửi ngập tràn thị trấn với những bức thư
ca tụng biết ơn. Mộ món tiền khổng lồ gần 200,000 Phật Lăng từ Hội Đồng Quốc
Gia ban thưởng cho thị trấn được chia cho công dân địa phương. Các đồ vật chạm
trổ, cờ thêu và chén dĩa vẽ tay được làm để chào mừng thị trấn và cư dân với những
hàng chữ : “Tổ Quốc tri ân” và nhà nước cũng dựng lên một tháp đài tưởng niệm ở
ngay tại khu vực quán Golden Arm nơi mà vệ binh quốc gia đã chặn đứng hành trình
đào tẩu của hoàng gia. Các văn sĩ, sử
gia có những cuộc hành hương đến viếng cái lầu 2 trong căn hộ của gia đình
Sauce trong suốt thế kỷ 19 mãi tới khi cả trung tâm thị trấn bị toán quân xâm lươc
Đức phá huỷ vào tháng Tám 1914 và bốn năm
sau lại bị quân Mỹ bắn phá thêm một lần nữa
trong trận chiến Argonne.
Ngoài những hậu
quả xảy đến cho cư dân Varennes, biến cố đêm đó cũng chúng tỏ một thay đổi hoàn
toàn trong lịch sử của Cách Mạng và của chế độ quân chủ Pháp với một tác động lớn
lao và tức khắc lên Hội Đồng Quốc Gia, lên toàn thể nước Pháp và có lẽ toàn thể
Âu Châu. Để đi sâu vào trong bối cảnh rộng lớn hơn của biến cố đào tẩu này, tuần
tự tiến trình ra sao, ảnh hưởng tới cuộc sống của đủ loại các nhóm chính trị và
xã hội trong suốt vương quốc như thế nào sẽ được đề cập trong những chương kế
tiếp.