Chương 5: cha già dân
tộc.
Trong hơn 2 năm làm việc của các đại biểu Hội Đồng Cách
Mạng Quốc Gia, soạn thảo hiến pháp mới và cơ cấu lại đất nước từ trên xuống dưới,
họ có nhiều nhóm người xuất chúng trong nhiều lãnh vực. Hệ thống bầu cử, được
chắp nối bởi thể chế quân chủ năm 1789 đã mang đến những con người ưu tú từ địa phương, vùng miền đến tầm vóc quốc gia
ở khắp nơi trên vương quốc. Có khoảng gần
300 nhà quý tộc mà hầu hết đều có tước vị và vô cùng giàu có đại diện cho các
gia tộc vĩ đại nhất của nước Pháp. Có vài chục giám mục, tổng giám mục và trên
200 linh mục chính xứ cai quản từ thị trấn đến thôn làng khắp cả nước. Lại có
chừng 600 vị đại biểu của giai cấp thứ ba, đại diện cho thứ dân của hầu hết mọi
vùng miền. Họ bao gồm đủ mọi nghề nghiệp: luật sư, quan toà, bác sĩ, thương
gia, chủ đất và công chức nhà nước các loại. Hầu hết các đại biểu cho giai cấp
thứ ba này là những người có tài sản và có kinh nghiệm trong việc quản trị phố
thị. Nhưng mẫu số chung của họ là được huấn luyện làm việc trong vòng luật pháp.
Khoảng 2/3 trong số họ có theo học ngành
luật pháp với nhiều người được xếp vào loại giỏi nhất về pháp luật trong độ tuổi
của họ.
Đối với các đại biểu thường dân của giai cấp thứ ba và
một số lượng nhỏ giới quý tộc và giáo sĩ ủng hộ họ, những tuần lễ đầu tiên của
cuộc Cách Mạng đánh dấu một thời điểm lạ thường gần như kỳ tích. Đối diện với sự
ngoan cố không nhượng bộ của hầu hết quý tộc và với sự gần như từ bỏ quyền lực
của chế độ quân chủ, lại có sự khuyến khích của đám đông dân chúng Paris, họ đã
học tập, khích lệ nhau và kết nối lại từ
những tư tưởng có được trong các lãnh vực đổi mới ở thế kỷ 18. Chẳng bao lâu, họ
thấy mình tiến xa hơn và nhanh chóng hơn đến một sự biến đổi cấp tiến cho nước
Pháp hơn bất cứ ai trong họ đã từng tưởng tượng. . Vào khoảng giữa tháng Sáu
1789, họ đã tự chuyển biến vào trong Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia, tự nghiêm túc
tận hiến qua lời “thề nguyền trên sân
tennis” để soạn thảo hiến pháp đầu tiên của quốc gia. Vài tuần sau đó, vào ngày
4 tháng Tám, trong một buổi họp đêm đặc biệt đáng ghi nhớ, họ đã gạt bỏ ra ngoài
phần lớn các tổ chức chính trị và xã hội của chế độ cũ và toàn bộ hệ thống đặc
quyền lãnh chúa và ưu tiên giai cấp. Không lâu sau đó, họ ban hành bản “tuyên
ngôn nhân quyền (cho nam giới) và quyền công dân, dự liệu cho các điều khoản của
dự luật về các quyền mà đã được phê chuẩn tại Hoa Kỳ 2 năm trước. Theo sau sự
kiện dời đô từ Versailles về Paris những ngày tháng Mười 1789, các buổi hội họp
của họ cũng di chuyển đến một khu vực cưỡi ngựa trong nhà ngay phía Bắc của những khu vườn
Tuileries. Họ tập trung với một nhiệt tâm làm nhiệm vụ xây dựng lại đất nước.
Phá bỏ phần nhiều chế độ cũ, họ buộc phải xây dựng lại mọi thứ từ con số không:
chính quyền trung ương, địa phương vùng miền, toà án, luật pháp, hệ thống thuế
khoá, việc tổ chức các lực lương vũ trang và ngay cả giáo hội.
Để
chấm dứt một cuộc Cách Mạng
Nhưng khi các đại
biểu đi vào năm thứ hai cuộc Cách Mạng, những thay đổi tế nhị trong thái độ và quan
điểm của họ đã bắt đầu xuất hiện, một phần có thể do quá mệt mỏi. Đối với những
người đặt nặng vấn đề nhiệm vụ, đối với những người tham dự các buổi họp thường
xuyên, tham gia vào các ủy ban này nọ, đọc hết những đề xuất dài dằng dặc của các
đại biểu khác và giữ nguyên sự giao thiệp tiếp xúc với cử tri của họ, những trách
nhiệm vô hạn đó có thể dẫn đến kiệt sức
và chán ngán mệt mỏi. Có ít người trong họ đã quen thuộc với tốc độ sống như vậy
trước khi bước chân đến Paris và một số khác giờ có khả năng mướn thư ký. Một đại
biểu đã viết: “Tâm trí chúng tôi không còn chịu đựng nổi với sự cố gắng liên tục
và quá mức thế nữa.” Một người khác nghĩ:
“Họ bị phiền hà với quá nhiều công việc,
quá nhiều hội họp và quá nhiều chuyện đấu tranh.” Trong quan hệ giao lưu, họ diễn tả là đã kiệt
sức, mệt mỏi, đau đầu mất ngủ và xuống cân. Đến đầu năm 1791, chuyện vắng mặt
gia tăng bất thường. Hầu hết đám quý tộc
và đa số các giáo sĩ đã ngừng tham dự hội họp và chỉ còn chừng 400 trong số
1200 đại biểu thường xuyên có mặt.
Sự kiệt sức và làm
việc quá sức cũng có thể đã góp phần vào những xung đột phe phái dữ dội đánh dấu
năm thứ hai cuộc Cách Mạng. Đại biểu Jean-Franҫois Campmas: “Hội Đồng Cách Mạng không còn làm việc
hiệu quả như buổi ban đầu nữa. Họ đã hoàn toàn kiệt quệ và trở thành con mồi
cho những tham vọng chính trị.“ Kể từ cuối năm 1789, những đại biểu cấp tiến nhất
đã bắt đầu gặp gỡ riêng biệt vào ban đêm tại một tu viện đã bị bỏ hoang ở ngay
phía bắc hội trường thành phố, chỉ cách một
hai bloc đường. Tại đây, hội thân hữu của chế độ lập hiến, hay còn gọi là
câu lạc bộ Jacobins, đặt theo danh xưng thánh Jacôbê, đã bàn luận về các vấn đề
xây dựng những chiến lược chính trị trước các phiên họp Hội Đồng và dự đoán
trong nhiều khía cạnh về các hoạt động của
một đảng phái chính trị tân thời. Không lâu sau đó, họ khai triển một mạng lưới
xã hội liên kết trên toàn quốc, chính là cái mạng lưới mà những người yêu nước đã
tham gia vào năm 1791. Nhưng chỉ ít tháng sau khi thành lập, nhóm Jacobins thấy
họ đối nghịch với một sự tách rời bất ngờ của các đại biểu trung lập được tổ chức
như Hiệp Hội 1789. Cả hai câu lạc bộ yêu nước này lại thường bị phân tán bởi những
đối đầu chính trị và xung đột cá nhân. Đầu tiên là tướng Lafayette, khi rời bỏ
Jacobin để gia nhập nhóm 1789, đã than vãn với người bạn George Washington vào
tháng Năm 1791: “Ngay cả những người tự gọi mình là những người yêu nước, thì cái
đam mê chia bè kết phái cũng đã gần tới mức độ có thể dẫn tới cảnh máu đổ thịt
rơi.”
Những thách đố mà
các đại biểu đối diện cũng phức tạp vì một loạt các sự phát sinh không được dự đoán
trước. Vào mùa xuân 1790, một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Anh Quốc và Tây
Ban Nha lúc đầu gây nên mối đe doạ về một sự can thiệp quốc tế vào nội tình nước
Pháp. Mối đe dọa làm cho Hội Đồng Cách Mạng tiếp tục bận tâm đến ngay trước đêm hoàng gia trốn chạy. Viễn ảnh
về chiến tranh dường như đặc biệt làm đảo lộn hơn với những hận thù dâng cao giữa
đám lính thường dân và bọn sĩ quan quý tộc, cũng là những thù hằn tương tự mà
tướng Bouillé đã phải đương đầu trong nỗ lực của ông ta đưa nhà vua đi trốn chạy,
đã đưa quân đội Pháp đến bờ sụp đổ. Phiền phức hơn nữa là sự đối nghịch được thúc đẩy trong một số khu vực của quốc
gia vì đạo luật ‘Dân Sự Hoá Hàng Giáo Phẩm’
và sự đòi hỏi lời thề trung thành (với Cách Mạng) của họ. Hầu hết các đại biểu
yêu nước thấy đạo luật này là một sự cải tổ cơ cấu giáo hội thật hợp lý và cần thiết. Nhưng một số thành
phần dân chúng lại được thuyết phục cho rằng họ đang cố thay đổi toàn thể hệ thống giáo hội Công Giáo. Sự nghiêm
trọng của khủng hoảng đã đến với các đại biểu khi nhiều phần tử trong chính khu
vực cử tri của họ, có khi có cả chính vợ con và bạn hữu họ bắt đầu tấn công vào
những chính sách tôn giáo của Hội Đồng.
Cùng lúc đó, các
đại biểu bị buộc phải đối đầu với những vấn đề bạo loạn và bất ổn ngày càng gia
tăng. Cái đe doạ thường ngày về một Paris đang ở trong tình trạng vô chính phủ. Trong những
khu vực mà các đại biểu sinh sống và làm việc, nào là bạo động vì giá bánh mì,
công nhân chống đối và sự bất phục tùng của các đơn vị vệ binh quốc gia đã làm
cho các nhà ái quốc đặt vấn đề về vị thế dân chủ mà họ đang ôm ấp. Một khi được
coi như là những người cứu độ cho cuộc Cách Mạng, không lâu sau thường dân
Paris bị nhiều người có tư tưởng trung lập coi là vô ơn, mguy hiểm và khó lường.
Theo quan điểm này, họ lại trở nên nguy hiểm hơn qua những láng giềng thiếu trách
nhiệm của nhóm Cordeliers và báo chí cấp tiến. Bắt đầu vào mùa đông 1790-`1791,
một nhóm Jacobins trung lập bắt đầu đẩy mạnh một loạt các nghị định nhằm mục đích
giải giới phe cấp tiến phổ thông. Các biện pháp này bao gồm việc loại trừ những
công dân nghèo khổ ra khỏi lực lượng vệ binh quốc gia, việc thực thi luật pháp
chống lại “các tội ác của báo chí”, và điều luật Le Chapelier cấm các tổ chức
nghiệp đoàn công nhân và đình công. Lãnh đạo của nhóm này là tay luật sự trẻ
Antoine Barnave của đơn vị Grenoble và các thân hữu của ông: các nhà quý tộc
Charles và Alexandre Lameth, cả hai là cựu quân nhân trong chiến tranh Cách Mạng
Hoa Kỳ, cùng với viên thẩm phán độc lập Paris Adrien Duport. Đối với Barnave và
nhóm thân hữu trên, giờ là thời điểm kết thúc Cách Mạng, đưa dân Pháp trở lại
cuộc sống bình thường và để xếp đặt lại sự ổn định và kỷ cương xã hội.
Tuy nhiên, chấm
dứt một cuộc cách mạng cũng tỏ ra khó khăn như khi bắt đầu. Tất cả mọi biện pháp
ôn hoà đều bị một nhóm nhỏ Jacobins cấp tiến trong Hội Đồng do Pétion và
Robespierre cầm đầu chống đối bằng đủ mọi cách. Robespierre, giống như Pétion,
có một đời sống khổ hạnh cho dù đầy nhiệt huyết trong niềm tin chính trị của mình
đã từ chối không chịu từ bỏ niềm tin vào quyền lực và thiện tâm của thường dân.
Quả thực, 2 người này cùng với một nhóm đại biểu đi theo họ tin rằng cuộc Cách
Mạng vẫn chưa hoàn tất. Dân chủ cần được lan toả và mọi nam công dân phải có
quyền đầu phiếu cho dù họ thuộc tầng lớp nào hay bất kể điều kiện kinh tế giàu
nghèo.
Nhưng vào mùa xuân
1791, Robespierre cùng bạn bè khó lòng chiếm ưu thế. Một người từng trong nhóm
cấp tiến phát biểu: “Đã đến thời điểm cho sự tự chế.” Ước vọng ngăn chặn ảnh hưởng
quần chúng tại Paris và kết thúc cuộc Cách Mạng đã đẩy nhiều người ôn hoà tới
việc chống đỡ cho quyền hạn và uy tín của nhà vua. Viên đại sứ Tây Ban Nha đã tìm ra sự xoay chiều
chính sách này vào cuối năm 1790: “các nhà lãnh đạo dân chủ đang tìm cách tiến
tới một sự thông cảm với chế độ quân chủ và hứa hẹn tiến tới sự trở lại trật tự
nhanh chóng.” Vào tháng Tư 1791, Barnave và cánh ôn hoà đã ngưng tham gia vào câu
lạc bộ Jacobins, và như Robespierre nghi ngờ nhưng không có chứng cớ, họ đã bí
mật thương lượng với vua Louis XVI. Ước vọng của phe đa số để củng cố lại vương
triều giúp giải thích cái thái độ tích cực quá mức đối với nhà vua trong số rất
đông các đại biểu yêu nước cùng lối suy nghĩ viễn vông khi họ đánh giá các hành
động của nhà vua. Cùng một lý do tương tự mà chuyện bất ngờ trốn chạy tìm tự do
của nhà vua cũng giống như một cú đập mạnh
đến choáng váng mặt mày.
Thời kỳ tạm hoà hoãn
Khi vị chủ tịch Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia loan báo
cái tin tức khủng khiếp lúc 9 giờ sáng ngày 21 tháng Sáu, các đại biểu ngồi im
lặng sững sờ. Một thành viên nhắc lại rõ ràng: “mặt mày ai cũng choáng váng”, khi tất cả mọi người cố hiểu rõ mọi tình trạng
của biến cố. Jean-François Gaultier de
Biauzat chỉ ghi chú lại đơn giản: “Giờ chỉ cầu mong Thiên Chúa cứu giúp chúng
ta.”Trong nhiều tuần trước đó, họ đã nghe nhiều dự đoán về việc nhà vua có thể
bị bắt cóc. Nhưng lúc nào cũng có hàng tá các tin đồn rì rỏ xung quanh, và các bồi
thẩm viên được huấn luyện để phân tích các bằng chứng và họ biết cách để loại bỏ
những tin không đáng để ý. Vả thực tình
mà nói, những tin đồn trên không phải loại mà các đại biểu có thể tin. Khi họ
ngày càng hình dung ra rằng nhà vua là một nhân vật quan yếu trong cái hệ thống
lập hiến mới, họ càng tự thuyết phục rằng nhà vua thật đáng tín nhiệm.
Không lâu sau có một đoàn các nhân viên bối rối đến hội
trường của Hội Đồng để cố tự biện hộ và giải thích chuyện gì đang xảy ra. Lafayette,
người có trách nhiệm tối hậu cho việc bảo vệ an ninh của hoàng thành Tuileries đi
vào với một dáng điệu sầu thảm và chán nản. Thị trưởng Bailly cùng nhiều đại biểu
đã yêu cầu cho điều tra các tin đồn trước
đó đồng thời cũng thú nhận sự thất bại của họ. Quả thật, nhiều tin đồn giờ có vẻ
như đáng chú ý hơn các đại biểu tưởng tượng. Người tỳ nữ của hoàng hậu, kẻ mà
hoàng gia rất lo sợ trong vài tuần trước cuộc trốn chạy đã đưa tin cho các viên
chức về màn trốn chạy sắp xảy ra vô cùng chính xác. Họ đã cử thêm vệ binh đến
canh gác cửa nẻo mà bà ta đã ám chỉ, thế nhưng hoàng gia vẫn biến đi như có ảo
thuật. Một số đại biểu đoán là chính Lafayette có dự mưu hay ít ra ngó lơ để cho âm mưu thành tựu. Chính xác hơn, dường
như viên tướng không thực sự tin các lời đồn đãi. Nếu chúng ta có thể tin hồi ký
của ông ta, thì ông đã trực tiếp đưa ra những bản báo cáo đó với chính vua
Louis, và nhà vua đã đưa ra những lời lẽ phủ nhận rất nghiêm trang và đầy uy lực
đến nỗi Lafayette đã đánh cược bằng mạng sống của mình rằng nhà vua sẽ không bỏ
đi như vậy. Giống như nhiều người khác, ông ta tin rằng nhà vua không thể nào nói
dối. Có lẽ vì lý do này làm cho ông ta đã không báo động cho các vệ binh bảo vệ
hoàng cung sự đặc biệt cảnh giác cần thiết.
Trong bất cứ biến cố nào, các đại biểu nhanh chóng vượt
qua sự mất tinh thần. Họ mạnh dạn nhắc nhở nhau về mọi sự việc đã trải qua, so
sánh tình thế hiện tại với thời điểm mùa hè 1789 khi những trở ngại dường như đã
không thể vượt qua. Họ tuyên bố mở một phiên họp thường trực và sẽ hội họp liên
tục suốt nhiều ngày kế tiếp, với bộ phận đại biểu chủ yếu ở lại suốt đêm để sẵn
sàng đối đầu với bất cứ tình trạng khẩn cấp nào có thể xảy ra. Và để đối mặt với
khủng hoảng chưa hề xảy ra, họ bỏ qua những mâu thuẫn đối nghịch để cùng nhau sát
cánh làm việc. Các thành viên đại biểu đặc biệt ấn tượng khi Barnave, một hội
viên trẻ của nhóm Jacobins lên tiếng biện hộ cho Lafayette, từ lâu là đối thủ của
anh. Hành động công bình và quảng đại này làm cả hội đồng sững sờ và mang lại kết
quả là làm dừng lại mọi tố cáo chống lại Lafayette. Đó là một ngày mà mọi sự
chia rẽ trước đó từ tư tưởng, nhiệt huyết, đối đầu đến cá nhân thù nghịch đều
quy về một mối. Sáng hôm sau 22 tháng Sáu, tất cả các đại biểu gốc quân nhân, hầu
hết thuộc cánh hữu bảo thủ của Hội Đồng đã ra mặt tiến lên với một chân qùy và
kiếm giơ lên cao, cùng đọc lời tuyên thệ
trung thành với Hiến Pháp. Lời thề trở thành một bi kịch đặc biệt vì nó không còn gì liên quan đến nhà vua. Đó cũng
chính là lời thề mà buổi chiều hôm đó, đoàn người Paris đủ thành phần đủ màu sắc
đã đến tuyên thệ trước mặt Hội Đồng Cách
Mạng.
Trong 2 ngày kế tiếp đã có hàng loạt các vụ vận động
và các nghị định ra đời, hầu hết được thông qua bởi sự đồng nhất cao. Mệnh lệnh
đầu tiên của Hội Đồng là tìm cách chặn đường tẩu thoát của vua. Chính Lafayette
đã gửi công văn đi ngay trước khi các đại biểu hội họp ngày 21 tháng Sáu. Lúc này,
Hội Đồng cũng làm như vậy, họ phái người mang thông điệp đi trên những con đường
chính để chận nhà vua và hoàng gia lại. Trong tiếng Pháp, từ ngữ chận có nghĩa
là ngăn lại mà cũng là bắt giữ lại, và như vậy là rõ ràng không mù mờ gì nữa.
Gần như ngay tức khắc, các đại biểu tiếp tục giữ cho
chính quyền tiếp tục vận hành. Chưa bao giờ trong lịch sử nước Pháp không có
vua hay người nhiếp chính. Bây giờ trong trường hợp khó khăn này, Hội Đồng Cách
Mạng buộc phải tùy cơ ứng biến. Các đại biểu đã đồng thanh nhất trí và không cần
bàn cãi về việc chấm dứt đòi hỏi sự chế tài của nhà vua trong việc phê chuẩn các
nghị định, lại thêm rằng tất cả các nghị định đã được bỏ phiếu trước đó và còn đang
chờ sự chấp thuận của nhà vua được thông qua thành luật ngay tức khắc. Có người
đề nghị thành lập một uỷ ban an toàn công cộng thuộc bên hành pháp lấy từ Hội Đồng
để giải quyết chuyện khẩn cấp. Nhưng các đại biểu chọn cách làm việc qua những
bộ trưởng hành chánh đang có sẵn, những người được triệu hồi ngay và được yêu cầu
tuyên bố trung thành với Hội Đồng Cách Mạng. Khi tất cả đã thi hành, họ được xếp
đặt ở trong một toà nhà tiếp giáp để dễ
dàng tiếp xúc với các đại biểu và làm việc trực tiếp với các uỷ ban trong chính
sách điều hợp. Những nghị định khác cho phép bộ trưởng tài chánh tiếp tục chi
tiêu ngân sách không cần chữ ký hoàng gia và chỉ thị cho các toà đại sứ nước
ngoài giao dịnh trực tiếp với Hội Đồng qua bộ trưởng ngoại giao.
Những quyết đinh ban hành ngẫu hứng chỉ trong vài giờ
như vậy được coi như biện pháp tạm thời và cấp thiết. Nhưng không ai biết là nhà
vua sẽ được tìm thấy hay có bao giờ quay trở lại không. Quả thực, việc tái cơ cấu
chính quyền nhanh chóng đã cấu tạo nên một cuộc cách mạng ảo thứ hai, dù chỉ là
uỷ nhiệm và có tính tạm thời, là một nền cộng hoà chân thật.Trên nguyên tắc, kể
từ 1789, tất cả những thay đổi như vậy hoàn toàn hợp pháp, các đại biểu đã tự
tuyên bố là một hội đồng cử tri có đầy đủ quyền lực để tạo một chính quyền mới.
Nhưng trên thực tế, họ luôn luôn chờ đợi sự chấp thuận của vua Louis về các nghị
định để có hợp hiến hay không. Trong 2 bài diễn văn soạn tại chỗ, Charles
Lameth đề xuất một hình thái hợp lý khác cho các hành động của họ, một sự chứng thực dựa trên tình huống khẩn cấp. “Ngay
lúc này, chúng ta buộc phải gánh vác hai trọng trách lập pháp và hành pháp.
Trong những giai đoạn khủng hoảng, người ta không thể tự ép buộc mình vào những
hình thức pháp luật mà người ta cần làm trong thời kỳ yên bình. Thà rằng phạm vào
một điều bất công tạm thời còn hơn để mất nước.” Những cảm nhận như thế mang
nhiều ám chỉ bất tường. Trong nhiều khía cạnh, những quyết định đưa ra trong thời
điểm khủng hoảng Varennes có lẽ định hình trước về những chính sách của một chính
quyền cai trị dựa trên tình huống: một chính quyền khủng bố.
Các đại biểu cũng mau chóng nhận thức được những hậu
quả có tính quốc tế từ việc trốn chạy của nhà vua. Không chỉ cư dân của
Varennes và Sainte-Menehould, họ nghi ngờ rằng cuộc chạy trốn được điều hợp với
một kế hoạch dùng ngoại quốc xâm lược để dẹp tan cuộc Cách Mạng bằng quân sự. Vì vậy, Hội Đồng tiến tới một bước chuẩn bị đất
nước cho chiến tranh. Các sĩ quan chỉ huy chính tại Paris được lệnh đi đến hội
trường và được yêu cầu tuyên thệ trung thành với Hiến Pháp. luật pháp và Hội Đồng
Cách Mạng. Một lần nữa danh từ nhà vua bị loại bỏ trong lời thề. Các đại biểu cũng
xúc động khi viên tướng Lean-Baptist Rochambeau, một người bạn của Washington và
là một anh hùng trong trận chiến Yorktown cũng đến tuyên thệ. Các sĩ quan được
yêu cầu làm việc với các bộ trưởng và các uỷ ban của Hội Đồng dự thảo những kế
hoạch dự phòng. Thấu hiểu được những yếu kém của quân lực Pháp, các đại biểu tiến
tới bước kêu gọi các vệ binh quốc gia tình nguyện trên khắp cả nước cho một sự
phục vụ đầy tiềm năng trong lực lượng võ trang chính thức. Một đợt đầu của cuộc
nổi dậy hàng loạt, một cuộc tổng động viên
trong thời chiến tranh, đã thiết lập được các danh sách khoảng ít nhất
3000 nhân sự tại từng bộ phận trong tổng số 83 bộ, sẵn sàng mang vũ khí bảo vệ
tổ quốc và Hiến Pháp. Hội Đồng Cách Mạng
còn dự liệu một bản hiến pháp khác vào giai đoạn 1793-1794 bằng cách gửi 4 đội đại
diện với nhiệm vụ đi đến các bộ phận tiền
phương để giám sát việc chuẩn bị chiến tranh và
nhận chân sự trung thành của các sĩ quan trong đoàn quân. Bất cứ nơi nào
họ đi qua, các đại biểu cũng được chỉ đạo dùng mọi biện pháp cần thiết để bảo đảm
trật tự công cộng và bảo toàn an ninh cho đất nước.
Cùng một mối lo lắng cho các đại biểu là vấn đề giữ gìn
hoà bình cho đất nước, đặc biệt tại những khu vực quanh trụ sở Hội Đồng Cách Mạng. Căn cứ vào sự bất ổn thường xuyên xảy ra tại
Paris trong suốt 6 tháng qua, hầu hết các đại biểu dự đoán có sự bùng phát vì hoảng sợ, bạo động hay tệ hơn nữa. Barnave
nhớ lại cuộc khủng hoảng tháng Bẩy 1789 và những rối loạn do tầng lớp lao động
thấp kém gây ra tại Paris cho tới khi các người chủ sở hữu tài sản và những công dân ở tầng lớp đó
gắn bó với nhau một cách chân thật với đất nước hình thành. Các đại biểu nhanh chóng thiết lập
một đội vệ binh bảo vệ chung quanh phòng họp và ngăn cản bất cứ ai ngoại trừ các
đại biểu tiến vào. Sau đó họ ban hành một lệnh kêu gọi trực tiếp tới cư dân Paris: “Hội
Đồng Cách Mạng Quốc Gia thông báo tới toàn
thể công dân rằng sự bảo vệ Hiến Pháp và quốc phòng chưa bao giờ đòi hỏi sự duy
trì luật pháp cấp thiết hơn. Người dân Paris đâu dễ dàng để yên vì sự biến mất
của hoàng gia và do đó đã có nhiều cuộc bạo động xảy ra. Tuy thế trongnhững ngày đầu tiên sau khi nhà
vua chạy trốn, hầu hết các nơi dân chúng giữ thái độ bình tĩnh. Các đại biểu rất
ngạc nhiên và vô cùng biết ơn. Félix Faulcon viết: “Dường như là một phép lạ, một
may mắn lớn lao không kỳ vọng trước. Tôi cho rằng dường như có đấng Tối Cao đang
bảo vệ Hiến Pháp.
Lúc đầu, mọi người cho rằng nhà vua có lẽ bị bắt cóc.
Tin đồn lan nhanh trước ngày 21 tháng Sáu đã luôn luôn đề cập đến một ai đó tìm
cách thúc đẩy vua trốn tránh ngược lại ý muốn
của nhà vua hay qua sự lừa gạt. Không ai muốn nghĩ tới khả năng chính nhà
vua chấp nhận cuộc mạo hiểm này. Nhưng khi có sự xuất hiện bản tuyên bố viết
tay của chính nhà vua giải thích lý do của hành động ấy, mọi sự hoàn toàn thay
đổi. Sự hiện hữu của nó lúc đầu được một
trong các vị bộ trưởng biết, và tới 2 giờ chiều ngày 21 tháng Sáu, nó được chính
thức đọc cho Hội Đồng nghe. Phán đoán dưới những bài phát biểu và các lá thư, lời
tuyên bố gây ra hầu như làm cho mọi người toá hỏa tam tinh cũng như các tin tức
đầu tiên về việc biến mất của nhà vua.
Khi ý tưởng của bản tuyên bố thấm vào đầu, không ai
ngoại trừ cánh cực hữu còn cố công bảo vệ nhà vua. Các đại biểu quá kinh hoàng
với việc nhà vua Louis quá dễ dàng phản lại lời thề hứa của ông. Basquiat, người
trước đây mạnh mẽ bảo vệ nhà vua đã nói với các đồng sự: “Louis XVI, vị vua mà
dường như luôn luôn được cho lấy điều tốt đẹp để khoả lấp cho những thiếu sót
sai lầm, chỉ trong một giây phút đã phá hủy hết những lời thề hứa của mình. Với
bản tuyên bố viết bằng chính nét bút của mình, ông đã tiết lộ cho cả thế giới
biết rằng danh dự và trách nhiệm của một vị vua đối với thần dân chỉ là con số
không to tướng.” Các đại biểu thật phẫn nộ về việc nhà vua hiểu rất rõ ràng về
những hậu quả do hành động của ông, một
hành động có thể dễ dàng dẫn đến nội chiến và có thể là một đại hoạ lớn lao.
Nhiều người đã vỡ mộng rằng nhà vua tưởng đã ủng hộ Cách Mạng với một thái độ
chân thật và thành khẩn như vậy mà giờ lại chối bỏ hoàn toàn mọi thứ. Họ đã luôn
luôn tin Louis không thể nào là người thất hứa hay phản bội niềm tin của thần dân.
Một đại biểu khác viết: “Nhà vua đã lừa gạt chúng ta cũng như lừa gạt cả nước,
những người đã một thời tôn kính ông. Nhà vua lương thiện, nhà vua của thần dân
chỉ mới vài tuần trước đây, giờ biến thành một tên tệ hại, một thằng ngu ngốc,
hèn nhát, quái vật…”
Ngay cả các đại biểu ôn hoà cũng tuyên bố về sự ghê tởm
của họ đối với hành động của nhà vua. Lafayette nhắc lại: “Tội lỗi gấp hai vì họ
đã được cảnh báo và những cái mà họ đã bỏ lại phía sau, phô bày ra đủ thứ nguy
hiểm.” Viên hầu tước bảo thủ de Ferrières viết cho vợ ông: “Nhà vua đã bỏ rơi
không chỉ giới quý tộc, giáo sĩ và nguyên cánh hữu của Hội Đồng Cách Mạng mà luôn
cả bạn bè, đầy tớ và các bộ trưởng. Hành vi này thật gớm ghiếc.” Trong lúc dầu
sôi lửa bỏng, một số đại biểu đã có ý sẵn sàng nhìn thấy nhà vua ra toà trước mặt
công chúng, và thay thế bởi một ban nhiếp chính hay ngay cả truất phế và thay bằng
chế độ cộng hoà. Ông thầy tu Thomas Linder viết cho người em: “Nước Pháp bây giờ
được chuẩn bị để đưa ra một khuôn mẫu về một người có thể coi khá vô lại so với
các vị vua. Khi người ta xem xét danh sách những tên ngu ngốc và vô lại đã làm ô
uế ngai vàng của chúng, người ta bị dụ dỗ lật đổ mọi thứ.” Antopine Durand cảm
thấy rằng kinh nghiệm này đã chữa lành cho nước Pháp căn bệnh sùng bái cá nhân
coi vua như những vị thần thánh.
Tuy nhiên, vào buổi tối 22 tháng Sáu, mọi sự lại rối
tung lên với tin chấn động nhà vua bị bắt giữ. Sau 2 ngày mù mờ bất trắc, hầu hết
các đại biểu kết luận rằng nhà vua đã vượt biên ra tới ngoại quốc. Nhưng khi
anh thợ cạo Manguin thị trấn Varennes ùa vào phòng họp kể lại diễn tiến câu chuyện,
toàn thể đại biểu đứng hết lên ghế vỗ tay hoan hô. Trong sự ghê tớm lúc đầu đối
với nhà vua, một số đã có suy nghĩ cho rằng tốt hơn để ông ta đi khuất và như vậy thoát khỏi ông luôn. Lại có người đón nhận
tin nhà vua bị bắt như trút được gánh nặng lớn. Frerrières lập tức viết thư cho
vợ: “Em có thể tưởng tượng ra niềm vui về tin này ra sao không?” Gaultier bắt đầu
bản báo cáo tới cử tri của ông bằng một lời cầu nguyên tạ ơn. Viên mục sư Tin Lành
Lean-Paul Rabaut của giáo khu Saint-Etienne viết: “Xin tạ ơn tới vì sao bổn mạng
của chúng ta mà tôi tiếp tục tin cậy.”
Nhưng cái cảm giác vui mừng rất ngắn ngủi. Khi tin
loan truyền về diễn tiến trở về Paris của hoàng gia quá chậm chạp, tình thế trở
nên căng thẳng và buồn thảm. Các đại biểu lúc đầu tập trung vào cơn khủng hoảng
tức thời, vào trách nhiệm giữ tình thế yên ổn, chính quyền vẫn đứng vững và chuẩn
bị cho quốc gia điều mà mọi người lo là một cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Trong
khảnh khắc đầu tiên bị sốc và bị phản bội,
một số đại biểu đã sẵn sàng có ý loại bỏ nhà vua khỏi chính quyền và thay thế bằng
một nhiếp chính hay ngay cả một nền cộng hoà. Nhưng những ý nghĩ đó chỉ dễ dàng
theo đuổi khi không có mặt nhà vua hay khi ông ra nước ngoài hơn là khi ông trở
lại hoàng cung Tuileries chỉ cách nhau vài trăm mét. Lúc này, họ buộc phải đối
diện với vấn đề trọng tâm là chuyện chạy trốn của nhà vua có ý nghĩa gì đối với
tương lai của bản dự thảo Hiến Pháp mà họ đã miệt mài nghiên cứu soạn thảo
trong suốt 2 năm và sắp sửa hoàn thành. Vấn đề thật trọng yếu như một người đã
phát biểu: “Chúng tôi đã không dám nghĩ tới cho tới lúc này.”
Các vấn đề dường như không bao giờ hết, từ những việc
căn bản về phương thức, vì chúng chưa hề có tiền lệ và Hiến Pháp cũng không đưa
ra được hướng dẫn nào cho những câu hỏi sâu xa về triết học chính trị: Người ta sẽ điều
tra nhà vua ra sao? Nhà vua có phải đã phạm tội không? Có thể nào một vị vua lại phạm tội? Ngay cả khi không bị kết án phạm
tội trước luật pháp, liệu nhà vua có thể còn đáng tín nhiệm và đưa lại vị trí nắm
quyền hành pháp? Một số đông đại biểu đã rất khổ tâm về phương hướng hành động
mà họ cần làm, và cảm thấy như ở một vị trí không thể bảo vệ. Họ đã đặt hết vốn
liếng vào niềm hy vọng của một nền quân chủ lập hiến. Họ càng lo lắng hơn làm sao để đưa hiến pháp vào việc thực thi, kết
thúc cuộc Cách Mạng và để làm mọi tranh cãi
ngưng lại cũng như tình trạng vô chính phủ dường như đang muốn nuốt chửng
cả cái xã hội của họ. Nhưng sau các biến cố vừa qua, liệu bản dự thảo Hiến Pháp
có bao giờ trở thành khả thi? Có người đã nói: “Chúng ta phải đối đầu với một mối
nguy tiềm ẩn ở mọi phương hướng. Thật khó có thể tưởng tượng, bằng phương cách
nào chúng ta có thể tự giải thoát khỏi cái vị trí không thể nào tin được mà việc
nhà vua chạy trốn đã đặt chúng ta vào đó?”
Phiên họp tranh cãi đầu tiên đã khởi sự vào buổi chiều
25 tháng Sáu. Với việc nhà vua từ Varennes trở lại Paris chỉ còn vài giờ nữa là về tới, Hội Đồng
Cách Mạng buộc phải có một quyết định sơ bộ về việc đối xử với tình trạng ra
sao. Chẳng bao lâu sau, mọi người thấy rõ rằng, cái sự đoàn kết vì mục đích
chung của các đại biểu khi tin tức đào tẩu của vua mới xảy ra giờ đã tan tác.
Nhóm cách mạng thuộc phe bảo thủ và quý tộc đòi hỏi nhà vua được trở lại ngôi vị
ngay tức khắc. Họ cho rằng nhà vua chẳng vi phạm bất cứ luật lệ nào khi rời
cung, và dù gì đi nữa, gần 2 năm trước đây, chính Hội Dồng Cách Mạng đã bỏ phiếu
cho nhà vua có được đặc quyền miễn tội. Như người phát ngôn bảo thủ
Pierre-Victor Malouet nói: “Bất cứ hành động nào khác đều làm sai lạc chính cái
Hiến Pháp đã được thiết lập.” Ngược lại, các đại biểu cực tả tranh cãi rằng
Louis phải bị đưa ra xét xử, có lẽ trước toà kháng cáo mới được thiết lập.
Robespierre nói: “Cho dù ở cấp bậc nào, vị trí cao cả đến mấy, không công dân nào
có thể nghĩ họ bị mất danh giá khi họ tuân theo pháp luật.”
Sau nhiều hồi tranh cãi, Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia đã
chọn một vị thế trung dung. Trách nhiệm giải quyết vấn đề chạy trốn tới
Varennes sẽ do Hội Đồng tự quyết định, bằng cách tự thành lập một phiên thẩm vấn
bên ngoài toà, Các cuộc điều tra sự việc sẽ do 2 uỷ ban thường trực của Hội Đồng
là Nghiên Cứu và Báo Cáo giám sát. Ngoại trừ hoàng gia, những người khác có liên
quan đến cuộc đào tẩu và bị bắt lại gồm 3 cận vệ, hộ khán, Phu nhân de Touzel,
Choiseul, Goguelat và những viên sĩ quan khác sẽ bị giam giữ và điều tra. Tuy
nhiên, nhà vua và hoàng hậu sẽ được đối xử đặc ân và được thẩm vấn ngay trong
hoàng cung. Một uỷ ban đặc biệt của các đại biểu được thành lập để xem xét các
bằng chứng và tường trình cho toàn thể Hội
Đồng. Cùng lúc đó, Hội Đồng làm một quyết
định quan trọng tiếp tục giữ lại mọi quyền hạn của nhà vua. Quyền chế tài các
nghị định của vua cũng bị đình chỉ. Tất cả các quyền hành pháp sẽ do các bộ trưởng
và các uỷ ban của Hội Đồng đảm nhiệm.
Ba đại biểu nổi trội nhất về pháp luật được Hội Đồng
chọn để thẩm vấn vợ chồng nhà vua. Buổi
thẩm vấn vua khởi sự vào buổi chiều 26 tháng Sáu chỉ sau khi ông trở về được 24 tiếng. Tuy nhiên buổi hoàng hậu gặp gỡ
đại biểu được dời qua ngày hôm sau, được
giải thích là vì bà vẫn còn đang tắm rửa, nhưng thực ra chỉ để lời khai của bà
trùng khớp với lời khai của chồng. Lời khai về câu chuyện của họ đồng ý với nhau, tương tự như họ đã chuẩn bị cẩn thận ở tại phòng ngủ nhà ông thị trưởng Sauce ở Varennes và đã được
thuật lại cho Barnave và Pétion trên quãng đường trở lại Paris: “Nhà vua chưa
bao giờ có ý định rời bỏ đất nước mà chỉ là di hành đến Montmédy nơi hoàng gia
sẽ an toàn khỏi những đe doạ và những lời nhục mạ họ gặp phải tại Paris. Rằng
nhà vua chẳng có liên hệ nào với các lực lượng nước ngoài. Rằng ông đã thật
kinh ngạc trong chuyến đi khi khám phá ra rằng dân chúng khắp nơi ủng hộ bản Hiến
Pháp mới.” Như Lindet tường thuật: “Nhà vua đã chuẩn bị bỏ qua mọi điều không
vui của cá nhân của ông với Cách Mạng để cùng hợp tác.” Đa số lời khai trong câu
chuyện là khá chính xác, ngoại trừ sự chối bỏ việc có liên hệ với cánh quân nước
ngoài là không đúng sự thật.
Khi kết quả của các buổi thẩm vấn được tường trình tới
Hội Đồng Cách Mạng, toàn thể sự kiện được chuyển qua việc cứu xét tới một ủy
ban mà cuối cùng phối hợp thành viên của 7 uỷ ban. Trong gần 3 tuần kế tiếp, từ
27 tháng Sáu đến 13 tháng Bẩy, toàn bộ sự việc ở trong tình trạng lấp lửng. Các
phiên họp suốt cả ngày lẫn đêm có tới 128 giờ, cuối cùng cũng kết thúc và Hội Đồng
trở lại trạng thái công việc bình thường. Theo như đại biểu Laurent-François
Legendre, thời gian chờ đợi dài là cần thiết để uỷ ban có thể hoàn tất cuộc điều
tra của họ. Nhưng theo một thống đốc người Mỹ Morris, người sống tại Paris và quen biết nhiều đại biểu,
việc trì hoãn mang nhiều lý do chính trị hơn là tư pháp. Dường như với ông, rõ ràng là với sự kiện nhà
vua đã trở về Paris an toàn, các đại biểu ôn hoà đã quay lại chiến lược lâu dài
của họ là duy trì chế độ quân chủ. Morris viết vào 2 tháng Bẩy: “Ý định của Hội
Đồng Cách mạng, theo tôi tìm hiểu, là cố gắng che đậy chuyện đào tẩu được phần nào hay phần đó đó và mong nó sẽ đi vào quên
lãng,” Đối với Morris, thu xếp như vậy
chứng tỏ một nhận thức kém vỏi và có tiềm năng gây hoạ lớn: “Điều này chứng tỏ
là có sự nhu nhược lớn ở mọi lãnh vực và có lẽ nó sẽ hủy hoại vương triều. Thực tế, một lần nữa cánh
Barnave-Lameth-Duport đã bí mật thương lượng với hoàng gia. Họ hy vọng sự trì
hoãn cho phép họ huy động được ý kiến công
chúng ở các vùng địa phương ủng hộ nhà vua.
Nhưng dù dưới bất cứ động cơ
nào, Hội Đồng Cách Mạng và cả nước cũng tự thấy đang ở trong một tình trạng lưng
chừng lửng lơ. Trên thực tế, chính quyền đã trở thành một thể chế “cộng hoà quân
chủ”, một vương quốc với một vị vua không
có quyền hành, được cai trị bởi các đại biểu không chỉ thực thi vai trò hành pháp
và lập pháp mà giờ còn thêm vai trò tư pháp then chốt. Chính Hội Đồng Cách Mạng
sẽ phán quyết về trách nhiệm của chuyến đào tẩu tới Varennes. Lindet nắm lấy cơ
hội châm biếm: “Quyền hành pháp giờ được thực thi gián tiếp. Nhà vua giờ chỉ còn
nhiệm vụ ăn uống ngủ nghỉ. Đây là những nhiệm vụ mà ông hoàn thành vô cùng tốt.”
Có một tiến triển lớn trong giai đoạn lưng chừng này là bức thư của
Bouillé được gửi đến từ Luxembourg nơi ông đang lưu vong. Qua sự giải thích của
ông, lời biện bạch được nhận thức như một
cách cứu giúp vị thế của nhà vua sau cuộc
trốn chạy thất bại. Lúc này, Bouillé nhận
hoàn toàn trách nhiệm cho kế hoạch đào tẩu. Vừa ra vẻ nhạo báng vừa xấc xược, ông
ta chẳng nói gì ngoài những lời lẽ khinh bỉ đối với Cách Mạng và bản Hiến Pháp
vô giá trị. Ông tuyên bố nhà vua và hoàng hậu thực ra chẳng muốn ra đi. Chỉ là
sau vụ bạo động ngày 18 tháng Tư và dưới áp lực của ông mà hoàng gia bị thuyết phục phải chạy trốn.
“Chính ta là người xếp đặt mọi thứ, ra mọi chỉ thị. Chỉ mình ta ra mệnh lệnh,
không phải nhà vua. Nếu cần trút cơn giận dữ, hãy trút lên đầu một mình ta.” Bức thư đã bẻ cong một thực tế đáng kể. Ngay
các đại biểu cũng không thể biết hết mọi chi tiết của cáí kế hoạch đào tẩu, họ
vẫn có nhiều chứng cớ về việc chính nhà vua đã ký rất nhiều mệnh lệnh cho các
thao tác quân đội nhằm dự phòng cho cuộc trốn chạy. Nhưng bức thư của Bouillé
mau chóng có ảnh hưởng đến phe ôn hoà trong Hội Đồng, những người hy vọng sẽ
duy trì thể chế quân chủ, và trong khía cạnh này, hành động của ông tướng mang
lại kết quả nhiều hơn ông mong đợi.
Trong khi cuộc tranh cãi chính thức của các đại biểu về số phận nhà
vua hầu như được dập tắt, thì nó lại bùng lên với đầy nhiệt huyết bên ngoài Hội
Đồng Cách Mạng. Đặc biệt có 2 nhóm đại biểu
hết sức thụ động và tỏ ra kiên nhẫn trong suốt giai đoạn lưng chừng đó. Ngày 28 tháng Sáu, theo như nhà
quý tộc Ireland de Bazôges, một số đông đảo phe bảo thủ và nhóm thông thái có
trí tuệ nhất trong đám thiểu số, đã gặp gỡ nhau bàn luận về tình thế. Họ vô cùng tức giận với phe đa số
đòi đình chỉ vai trò của vua và nắm quyền
hành pháp. Trên thực tế, nhà vua giờ như bị giam lỏng trong cung điện. Họ vẫn
tin rằng nhà vua chẳng phạm tội gì cả và nhà vua được quyền đi bất cứ đâu và bất
cứ khi nào ông muốn. Theo như viên bá tước de Lécis, tội lỗi của vua có lẽ chỉ
là sự mềm yếu khi ông nói rằng ông yêu mến
cái Hiến Pháp mà thực ra trong lòng không
ưa và chỉ muốn vui hưởng cái tự do mà vua đã ban phát cho những người khác mà
giờ lại vì chính nó ông bị trói buộc. Một số nhà cách mạng kiên quyết như nam
tước de Vaureuil lại rất giận dữ vì nhà vua đã đoạn tuyệt với tuyên bố hôm 21 tháng Sáu. Còn phong kiến hơn cả nhà
vua và chẳng tuân thủ một thoả hiệp nào, ông nam tước đã dùng cơ hội để tuyên bố
chối bỏ một loạt các biện pháp Hội Đồng đã thông qua kể cả điều luật dân sự hoá
giáo sĩ và việc trấn áp giới quý tộc. Sau một buổi tranh luận dài, khoảng 293 đại
biểu phe bảo thủ chính thức phản đối việc đình chỉ nhà vua và trên 250 người
trong nhóm thề tẩy chay mọi nghị định tương lai của Hội Đồng. Có thể không nghi
ngờ gì rằng việc phản đối của cánh đại biểu phò vương làm bùng lên cái mưu đồ ám
ảnh đa số người dân Paris. Có người trong họ đã kết luận rằng đám 250 này chắc
chắn đã đồng loã với màn đào tẩu của nhà vua ngay từ lúc đầu.
Cùng lúc đó, ở phía đối lập trong lãnh vực chính trị, phe cánh
Jacobin cũng theo dõi và bình luận về những biến cố lịch sử vô cùng nhiệt tâm. Toàn
thể hội viên của nhóm, kể cả ôn hoà và cấp tiến, từ lâu đã coi việc khám phá và
tố cáo cáí âm mưu (phản Cách Mạng) như một nhiệm vụ chính yếu của họ. Nhưng hầu
hết như những người khác, họ vẫn duy trì một xu hướng chung là cảm thông với nhà vua, luôn luôn xem ông
tuy mềm yếu nhưng có lòng tốt. Bây giờ với
chuyện chạy trốn của tới Varennes, đại đa số các thành viên của họ không chỉ cảm
thấy nhà vua đã phản bội họ, mà còn kinh sợ vì sự mù quáng của họ đã không dự đoán
được chuyện bội phản đó, đã không nhổ tận
rễ cái âm mưu nguy hiểm quá sức này. Có lẽ chính vì cái cảm giác có lỗi, ngay cả
nhục nhã đó đã dẫn tới nhiều thành viên Jacobins phản ứng phẫn nộ quá sức đối với
việc nhà vua trốn chạy.
Tuy vậy câu lạc bộ tiếp tục chia rẽ, và buổi họp đêm 21 tháng Sáu
đặc biệt có sự đối đầu căng thẳng giữa hai nhóm. Robespierre lãnh đạo nhóm cấp
tiến tới trước, tấn công phủ đầu các đại biểu đồng viện thật điên cuồng, tố cáo
gần như toàn thể đại biểu trong Hội Đồng là phản cách mạng, một số vì kém hiểu
biết, một số vì sợ hãi, một số qua sự phẫn vộ và lòng tự hào bị tổn thương, còn
có một số vì tham nhũng . Nhưng cánh đại biểu ôn hoà trong câu lạc bộ đến muộn
sau đó khoảng 200 người quyết định giành lấy lại quyền kiểm soát. Những cặp đối
thủ trước đây như Charles Lameth và Lafayette, Barnave và tu viện trưởng Sieyès,
tất cả kêu gọi một sự đoàn kết thiêng liêng trong cơn khủng hoảng. Khi người bạn
Georges Danton của Robespierre, một tay hùng biện của câu lạc bộ Cordeliers lên
tiếng tố cáo Lafayette tội phản quốc, Alexandre Lameth vội vàng lên tiếng bảo vệ.
Với tinh thần huynh đệ đang ở mức cao, Barnave đã kêu gọi tất cả các câu lạc bộ
thân hữu của cánh Jacobins hãy hoàn toàn ủng hộ Hội Đồng Cách Mạng: “Chỉ có duy
nhất Hội Đồng có quyền hướng dẫn chúng ta.” Một đề nghị đã được vỗ tay hoan hô
nhiệt liệt. Các đại biểu ôn hoà đã hứng khởi với sự kiện gió đổi chiều.
François-Joseph Bouchette viết: “Giờ chẳng còn phe quân chủ hay phe 1789 gì nữa,
Mọi người đã thành một khối ủng hộ Hiến Pháp.”
Dù vậy căng thẳng bên trong nội bộ phe phái vẫn cao vời vợi và vấn
đề số phận nhà vua tiếp tục là đề tài nóng
bỏng. Trong khi Hội Đồng vẫn chờ đợi, nhóm Jacobins tiếp tục tranh luận vấn đề
hầu như hàng ngày. Mặc dù có một số đại
biểu, chẳng hạn như tay cấp tiến Pierre-Louis Roederer, dường như ủng hộ một thể
chế cộng hoà, những yêu cầu như vậy thì hiếm hoi và thường bị nhóm ôn hoà bác bỏ
nhanh chóng rằng điều đó ngược với Hiến Pháp mà xã hội đã đang ủng hộ. Tuy nhiên,
không ai sẵn lòng bào chữa cho hành động của nhà vua và đa số các thành viên không
là đại biểu của nhóm đòi hỏi đưa nhà vua ra xét xử và thành lập một chính quyền
nhiếp chính. Khi nhiều người trong nhóm đại biểu ôn hoà mệt mỏi vì tham dự những
buổi họp hàng đêm đầy tính chiến đấu, Barnave và Alexandre Lameth dường như đã
không trở lại từ sau ngày 22 tháng Sáu, hoặc là họ quá bận rộn với những công
việc trong uỷ ban của Hội Đồng Cách Mạng, toàn thể câu lạc bộ dường như thu hút
vào cách ứng xử đối với một vị vua phản quốc ngay cả khi họ đã tuyên bố ủng hộ một nền quân chủ.
Số phận của vương
triều
Cuộc tranh luận lớn nhất trong phạm vi Hội Đồng Cách Mạng cuối cùng
được hoạch định vào ngày 13 tháng Bẩy với
báo cáo chính thức của nhóm “7 ủy ban” có nhiệm vụ đúc kết một tường thuật về
những biến cố tại Varennes. Trong ba ngày liên tiếp, khoảng 17 đại biểu đã phúc
trình về số phận của nhà vua và của nền quân chủ. 9 người ủng hộ dự thảo xá tội và 8 người biểu quyết chống lại. Nhiều ngưòi
trong số những nhà diễn thuyết tài giỏi nhất của Hội Đồng Cách Mạng và những người
khác cũng chuẩn bị phúc trình rất cẩn trọng. Những lãnh đạo phe trung hoà là những
bậc thầy trong việc vận hành và biện luận trong quốc hội. Họ phác thảo chương
trình thật khôn khéo và đi từng bước tranh luận để có được ưu thế tối đa. Đối
thủ của họ, những người thuộc cánh cực tả của nhóm Jacobin cũng mở rộng tranh luận hùng hồn, nhưng các đề nghị của họ
mang nhiều tính cách cá nhân và đôi khi mâu thuẫn nhau.
Để trình bày trường hợp của họ, các uỷ ban đã chọn một vị thẩm phán
30 tuổi ở miền Đông nước Pháp: Hyacinthe Mouget de Nanthou. Mouget xử dụng tối đa
bức thư của Bouillé để tranh luận rằng quả thực nhà vua bị bắt cóc, một loại bắt
cóc tâm trí, qua áp lực và sự hù doạ nếu không phải qua thân thể. ”Chắc chắn là
từ quan điểm luân lý và chính trị, người ta không bao giờ có thể chấp nhận các
hành động của nhà vua, vì họ là những người thiếu suy nghĩ và thiếu trách nhiệm.
Nhưng điều thiết yếu là các đại biểu phải làm việc theo pháp luật chứ không phải
theo cảm tính. Và theo pháp luật, nhà vua chẳng phạm vào tội hình sự nào. Lời
tuyên bố của nhà vua vào ngày 21 tháng Sáu có tính cách phi chính trị rõ ràng,
nhưng tự nó không phản lại luật pháp. Chuyện đào tẩu của nhà vua chỉ có thể là
nền tảng cho việc truất phế ông nếu nhà vua đã rời bỏ đất nước và từ chối trở về.
Nhưng qua lời cung khai, nhà vua đã không bao giờ có ý định như thế. Ngay cả nếu
như nhà vua có phạm tội, ông cũng không thể bị xét xử, vì Hội Đồng Cách Mạng đã
bỏ phiếu miễn xá cho vua gần 2 năm trước.” Từ các cuộc tranh luận trước đó về Hiến
Pháp, Muguet đã biện luận rằng các đại
biểu đã quyết định rằng nước Pháp phải là một quốc gia với thể chế quân chủ. Một
vị trí quyền lực trung tâm rất cần thiết cho một đế quốc rộng lớn như nước Pháp,
nơi mà nhiều phần dễ có khuynh hướng bị chia cắt. Quả thực, việc thiết lập một
nền quân chủ là vì đất nước, không phải vì nhà vua. Ở trong hệ thống quân chủ này,
điều quan yếu là nhà vua phải được miễn nhiễm khỏi việc xét xử. Nếu nhà vua có
thể bị truy tố, bất cứ phe phái nào cũng có thể tấn công ông chỉ vì những lợi ích
nhỏ mọn của họ, và như vậy đất nước luôn luôn bị đe doạ vì hỗn loạn và nội chiến
như đã từng xảy ra tại Anh quốc 150 năm trước. Những tên tội đồ của biến cố này,
và chỉ những cá nhân được nhắc đến trong dự thảo quyết nghị của ủy ban là
Bouillé và phụ tá của y. Nước Pháp phải noi gương cách đối xử của Hoa Kỳ đối với
tên phản bội Benedict Arnold và trừng trị những tên này theo đúng pháp luật.” Một
điều đáng tò mò là Axel von Fersen hiếm khi được nhắc tới và hoàn toàn không nói
gì đến nhà vua và hoàng hậu.
Để đáp lại lập luận của ủy ban, phe cấp tiến chấp nhận một số chiến
thuật. Pétion và những tay hùng biện khác tấn công vào cái ý tưởng miễn xá. Chắc
chắn các vị vua phải có trách nhiệm về những hành động của họ, nếu không sẽ không
thể ngăn cản đất nước có một bạo chúa như Nero hay Caligula sa vào tội ác diệt
chủng chống lại nhân dân. Sự mìễn nhiễm được Hội Đồng Cách Mạng bỏ phiếu năm
1789 chỉ có thể áp dụng về các hoạt động cho đất nước, không thể cho các hành vi cá nhân như quyết định của
vua Louis trốn chạy khỏi tổ quốc và từ bỏ nhiệm sở của mình. Tuy nhiên, đa phần
phe cấp tiến xoay quanh các tranh luận về pháp lý của ủy ban và kêu gọi một điều
luật về luân lý cao hơn. Làm sao họ có thể chấp nhận một vị đứng đầu ngành hành
pháp mà lại dối trá trắng trợn và lừa gạt Hội Đồng Cách Mạng và toàn thể đất nước
thô bạo như thế? Pétion đặt câu hỏi: “Đã bao nhiêu lần Louis tuyên thệ trung thành
và tình yêu thương đối với hiến pháp? Nhà vua đã chẳng từng đến chính nơi này,
mà không hề bị triệu hồi, để xác quyết sự
gắn bó của ông với Hiến Pháp sao? Ông đã chẳng từng tuyên bố là người kiên quyết
bảo vệ nó sao?” Những hành động như vậy
chẳng qua chỉ vẽ vời ra để ru ngủ đất nước để dễ dàng lừa gạt thôi. Mar Alexis
Vadier, một thành viên hung bạo Jacobin và sau này cầm đầu nhóm khủng bố, người
ít khi có phát biểu trong các cuộc họp đã vô cùng giận dữ. Chỉ mới vài tuần trước
đó, ông ta viết gửi cho đơn vị cử tri của mình rất tự tin, chối bỏ hết mọi tin
đồn về một cuộc chạy trốn sắp xảy ra. Lúc này ông cảm thấy không chỉ bị phản bội
mà còn bị sỉ nhục. Ông công kích Louis thậm tệ: “tên du côn đội vương miện, ông
vua trốn chui trốn nhủi đã hèn nhát từ bỏ vị trí chỉ với mục đích làm chính quyền
bại liệt và để lại cho chúng ta những kinh hoàng về một cuộc nội chiến và vô chính
phủ, Một lão vua mà qua lời tuyên bố phản phé, đã xé nát Hiến Pháp ra từng mảnh.”
Nhiều diễn giả đã nêu lên câu hỏi có tính cách chính trị căn bản về
sự tín nhiệm của công chúng và tính chính danh. Robespierre hỏi thẳng thừng: “Làm
sao chính quyền có thể thi hành phận sự khi có một lãnh đạo mà mọi người bất tín
nhiệm?” Không cần sự hậu thuẫn của công luận, François-Nicolas Buzot tiên đoán:
“Chẳng hy vọng gì có được hoà bình dân sự.” Tất cả phe cấp tiến cảm nhận được nỗi
lo sợ ám ảnh về một thể chế cộng hoà của
các đại biểu, và họ đã khổ tâm để khẳng định rằng chính họ không muốn từ bỏ thể
chế quân chủ. Thế nhưng họ kết luận là nhà vua phải bị xét xử bằng một phương cách nào đó cho
những hành vi của ông: hoặc qua hệ thống
phiên toà thông thường, một cuộc trưng cầu ý dân phổ thông, hay qua một hội nghị toàn quốc.
Phe trung hoà đưa ra các ngoại lệ từng điểm một đối với hầu hết các
điểm tranh luận của phe cấp tiến. Họ chối bỏ một khẳng định cho rằng công luận
chống lại nhà vua. Người ta có thể phán đoán vua nghiêm khắc qua nhiệt tâm của đám
đông Paris, những người bị kích động bởi vài
tay ký giả nổi loạn và vài thành viên các câu lạc bộ. Những tay xảo quyệt
ngoan cố tột bực này chỉ muốn huỷ hoại Hiến Pháp.” Họ tranh cãi rằng, dù nhà vua sai trái bất cứ
gì, đại đa số thần dân Pháp vẫn gắn bó với chế độ quân chủ và coi cá nhân của
vua như một vật thể thiêng liêng cần thiết. Bất cứ trong trường hợp nào, xã hội
vẫn phải đặt trên căn bản pháp luật. Barnave khôn khéo xử dụng nỗi lo sợ của các
đại biểu về những cuộc xuống đường trước đó tại Paris mà nhiều cuộc xuống đường
trực tiếp chống lại chính Hội Đồng Cách Mạng. Cho dù bất cứ gì, những người đòi
hỏi đưa nhà vua ra toà này cũng đang thực sự muốn tạo nên một thể chế cộng hoà,
và một nền cộng hoà cũng chỉ có nghĩa là một tình trạng vô chính phủ cai trị bởi
đám đông. Cuối cùng, Cách Mạng phải bị ngăn chặn lại, nếu không những điều rất
cơ bản của một xã hội ổn định và về tài sản cá nhân sẽ bị xáo trộn.
Tuy vậy cho đến phút chót, phe trung hoà cảm thấy rằng luật pháp tính
và chiến thuật gây sợ hãi có lẽ vẫn không đủ. Vào ngày 15 tháng Bẩy, bản vận động
nguyên thủy của ủy ban được thông qua thành luật nhưng chỉ sau khi có những điều
khoản tu chính thêm vào việc hứa hẹn những phụ khoản chuyên biệt về các trường
hợp mà nhà vua và các vị vua tương lai có thể bị truất phế hay thay thế. Đêm hôm
sau 16 tháng Bẩy, phiên bản cuối cùng của các phụ khoản được giới thiệu và thông
qua. Lúc này đã có quyết định rằng vua
Louis sẽ không được trở lại ngôi vị ngay tức khắc, nhưng quyền hạn nhà vua sẽ ở
nguyên trạng thái đình chỉ cho tới khi bản Hiến Pháp hoàn thành và nhà vua sẽ
chính thức ký nhận. Nếu vua từ chối ký, ông sẽ lập tức bị truất phế và thái tử con ông sẽ lên kế vị cùng với một nhiếp chính. Thêm vào đó, các đại biểu cũng bỏ
phiếu cho 2 dự luật về việc truất phế vua trong tương lai: Một vị vua hoặc lãnh
đạo một quân đội chống lại nước Pháp hoặc nuốt lời thề với Hiến Pháp mà ông đã
tuyên thệ trước đó sẽ bị cứu xét để tước ngôi vị vì những hành vi đó. Điều rõ ràng là nếu điều luật về nuốt lời hứa
có trước đó một tháng, vua Louis có lẽ đã mất ngôi vị.
Cuộc bỏ phiếu cuối cùng đã không được ghi chép lại. Antoine
Thibaudeau cho rằng nhiều đại biểu lúc đầu đã có kế hoạch chống lại việc xá tội
nhà vua. Nhưng sau khi lắng nghe các cuộc tranh luận và sau một loạt các tu chính
được thông qua, chỉ có 8 người trên tổng số mấy trăm đại biểu không chấp nhận dự
luật của ủy ban. Chúng ta sẽ không bao giờ biết tại sao các đại biểu đã bỏ phiếu
ra sao. Trong thư từ gửi về nhà, họ gặp khó khăn trong việc giải thích quyết định
của họ cho gia đình và thân hữu. Nhiều người than vãn là họ đã khổ tâm như thế
nào cho sự chọn lựa đó. Hầu hết viện hết lý do này đến lý do khác, hoặc tóm tắt
lại những biện luận của Muguet hay Barnave hay của ai đó, đôi khi nhắc lại nguyên
văn từng chữ bài diễn văn của họ mà chẳng chỉ ra cái lý luận nào mang tính quyết
định nhất. Nào là điều thiết yếu là phải tuân theo luật pháp. Nào là nhà vua chẳng
vi phạn tội gì; nhà vua không thể bị truy tố; một thể chế cộng hoà không bao giờ
thích hợp cho một quốc gia rộng lớn như nước Pháp (ngay cả khi chẳng có đại biểu
nào thực sự đề nghị một nền cộng hoà); nào là việc xét xử hay truất phế nhà vua
có thể sẽ gây ra nội loạn và chiến tranh với nước ngoài. Đáng kể là, có 2 người
trong số đại biểu chống lại việc xét xử nhà vua bởi vì họ được thuyết phục rằng nếu nhà vua có tội sẽ bị đưa lên giàn treo cổ: “Việc truy
tố một vị vua không phải chuyện đùa, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng bất cứ vị vua nào
bị truy tố chắc chắn sẽ mất mạng.” Có một vấn đề dường như đặc biệt lan rộng nhưng
lại không bao giờ được nói đến trong các cuộc tranh luận trên văn bản chính thức
là sự lo sợ của các đại biểu về việc phải loại bỏ bản Hiến Pháp mà họ đã dầy công
soạn thảo trong thời gian dài và đã đầu tư biết bao nhiêu công sức và cảm xúc vào
đó. Đối với Félix Falcon, một chiến thắng cho phe cấp tiến sẽ có nghĩa rằng: “đây
là bản Hiến Pháp đã gây ra bao nhiêu đấu tranh và hy sinh của họ trong suốt 2 năm
trời. Bản hiến pháp mà khi hoàn tất sẽ ngăn lại mọi biến động có tính bạo lực và
thay thế bằng niềm vui sướng cho công chúng.
Rằng lúc đó nó sẽ không cần hiện hữu.” Tay sản xuất rượu vang Burgundy tên
Claude Gantheret cũng viết cùng một ý tưởng một cách ngắn gọn: “Công sức tôi đổ
ra cho bản Hiến Pháp làm tôi thật đau đớn khi nghĩ đến chuyện thay đổi nó.”
Và còn rất nhiều đại biểu trong cách giao lưu cá nhân của họ đã biểu
hiện sự vỡ mộng lớn lao qua trải nghiệm này và tỏ ra bi quan cho tương lai. Mặc
dù bỏ phiếu theo phe đa số, Gantheret thú nhận rằng anh ta không thể nào quên
những lời lẽ của Henri Grégoire : “ Ngay cả khi nhà vua đồng ý ký vào Hiến Pháp,
làm sao một người đã phản bội lời thề đã từng ba bốn lần tuyên thệ có thể đáng
tín nhiệm?” Durand cũng thú nhận có cảm
giác bị khủng bố khi ông nghĩ đến quyết định
của mình. Lindet, người dường như cuối cùng cũng bỏ phiếu duy trì vương triều đã
thố lộ sự ghê tởm của mình trong toàn sự kiện với người em trai, một thành viên
tương lai của ủy ban an toàn công cộng: “Chúng ta cần một vị vua. Thế nhưng chúng
ta đã phải chọn một kẻ khờ dại, một thằng người máy, một kẻ phản quốc, một nhân
chứng giả dối. Đó là một người mà thiên
hạ căm ghét, một người mà dưới danh nghĩa của hắn, những tên vô lại nắm quyền
cai trị.” Ông ta tin rằng Barnave và những người khác đã sai lầm và bất công
khi họ gán cho sự chống đối của quần chúng chống lại nhà vua là do sự xúi giục
của vài nhà báo. Thường dân Paris thực sự khinh bỉ Louis. “ Chúng ta có thể hy
vọng gì nơi một nhà lãnh đạo hèn hạ như thế? Thật khó có thể tưởng tượng là tình
hình sẽ duy trì được hoà bình lâu dài.”
Cuộc tàn sát tại
Champ de Mars
Trong suốt những
ngày trước đó, cư dân Paris theo dõi sát các cuộc tranh luận của các đại biểu và
ít khi lái qua chuyện khác. Khoảng thời gian lưng chừng này khi Hội Đồng Cách Mạng
tạm trì hoãn trách nhiệm giải quyết vấn đề đã khuyến khích vô số cá nhân suy luận
sự kiện theo cách riêng và nhiều người đã tự đưa mình vào phe bên này hoặc bên
kia, chống hoặc theo phe bảo hoàng, chống hay theo phe cộng hoà. Phát biểu về
cuộc bỏ phiếu của Hội Đồng Cách Mạng ngày 15 tháng Bẩy lan ra thành phố vào buổi
chiều tối nhanh như điện giựt, làm nổ bùng
lên những tranh luận tại khắp quán cà phê, đường xá, công viên nơi có đông người
tập trung. Số đông đáng kể người dân Paris, đặc biệt trong các khu phố giàu có đã
mạnh mẽ ủng hộ quyết định, vì lo sợ rằng bất cứ giải pháp nào khác có thể dẫn đến
bất trắc và nguy hiểm. Tại quán cà phê Saint-Martin ở phía Bắc Paris, nghe nói đã
có trên 100 người hoan hô với sự đồng ý. Nhưng cũng rất đông người cũng đã cuồng
nhiệt phản ứng chống lại nghị quyết này, tố cáo Hội Đồng là quá nhu nhược hay đồng
loã với sự phản quốc của nhà vua. Trong
quán cà phê Procope bên phía tả ngạn, một địa điểm mà Voltaire và những nhà
Khai Sáng khác đã từng tập trung uống mừng,
có tiếng la lối cuồng nộ trong số những người chống đối. Tại hoàng cung
và sân triều đình bên ngoài khu Hội Đồng Cách Mạng, người ta ầm ầm kéo đến la ó
phản đối. Du khách Desbassayns đã vô cùng
ngỡ ngàng và sợ hãi vì những ý kiến xung đột và sự chia bè kết phái gia tăng: “Cả
hai phía đều trở nên giận dữ thêm đến nỗi
họ coi đối thủ như những kẻ thù cá nhân.”
Nhà bán sách Nicilas Ruault viết: “Dân chúng trở nên giận dữ. Cả thành phố trở
nên náo động đáng sợ, từ cái công viên ngay trước mặt Hội Đồng Cách Mạng cho tới
quán xá nhỏ bé nhất. Sự phẫn nộ và kích động chống lại nhà vua và “7 Ủy Ban” như
giọt nước tràn ly.”
Ngay trong lúc xảy
ra phản ứng hỗn loạn tự phát, nhóm Cordeliers và nhiều hội thân hữu anh em đã
nhanh chóng bắt đầu huy động sự đáp trả có tổ chức hơn. Hàng ngàn ủng hộ viên của
họ, dân chúng từ những khu vực xuất bản sách báo và đám Sans-Culottes trong khắp
Paris đã đi đến trụ sở Hội Đồng Cách Mạng
không lâu sau đó để đưa thêm một thỉnh nguyện thư nữa đã được soạn thảo trong
ngày, thúc giục Hội Đồng xem xét lại quyết
định. Khi 5 người xuống đường được phép vượt qua hang rào vệ binh quốc gia bảo
vệ để tiến vào trụ sở, họ được nghe chính Robespierre và Pétion cho biết là không
may Hội Đồng đã quyết định xong và thỉnh nguyện thư của họ trở nên vô dụng. Thất
vọng và giận dữ, một phần tử trong đám đông bèn băng qua khu vực hữu ngạn giàu
có, ép buộc các rạp hát, nhạc kịch phải đóng cửa như một dấu hiệu “để tang”, giống
hệt như họ đã làm trong cuộc bạo động tháng Bẩy 1789. Những người khác tràn qua khu vực hoàng cung
tham dự vào cuộc xuống đường tuần hành vĩ đại ngoài trời do phe cấp tiến hội các
THân Hữu của Sự Thật tổ chức đêm đó. Các diễn giả tỏ ra đối nghịch mạnh mẽ hơn.
Họ tuyên bố không bao giờ chấp nhận quyết nghị của Hội Đồng mà không hề có trưng
cầu ý dân, ám chỉ một cách rõ ràng rằng họ không còn thừa nhận tính chính danh
của Hội Đồng Cách Mạng. Đến 9 giờ đêm, nhiều ngàn người đã di chuyển sang khu câu
lạc bộ Jacobin để tiếp tục phản đối.
Tại đây, đám đông
thấy phe nhóm Jacobin đang trong cuộc tranh luận chia rẽ về phản ứng nào tốt nhất đối với bản quyết
nghị mới. Khi hàng trăm người xuống đường tìm cách mở được cánh cổng khoá trái bên
trong và mọi người uà tiến vào, hội trường trở nên hỗn loạn. Bị sốc vì chiến
thuật dùng áp lực của đám đông và giận dữ với sự tiếp tục chống đối của phe cấp
tiến đối với quyết nghị của Hội Đồng, gần như tất cả các đại biểu bỏ ra về, thề
sẽ tẩy chay câu lạc bộ luôn. Số người còn lại lúc đầu cố thương lượng với cánh
Cordeliers và các hội Thân Hữu, hứa hẹn sẽ soạn thảo và đưa thỉnh nguyện thư riêng
của họ lên. Thế nhưng bây giờ, đám đông đòi hỏi một chế độ cộng hoà và không thừa nhận Hội Đồng, và nhóm
Jacobins kể cả Robespierre và Pétion cùng
một số đại biểu còn ở lại câu lạc bộ đã
từ chối phủ nhận Hội Đồng mà họ tùy thuộc vào. Cuộc thương lượng tiếp tục cả đêm
và qua tới ngày hôm sau, sau khi đám đông đã rút. Nhưng cuối cùng, ban lãnh đạo
nhóm Jacobins bác bỏ toàn bộ thỉnh nguyện thư và phe Cordeliers cùng thân hữu
buộc phải đẩy tới trước đường lối riêng của họ.
Các thành viên của
Hội Đồng Cách mạng theo dõi những biến cố này với sự giận dữ và mất kiên nhẫn.
Lúc này, trong nhiều ngày công viên bên ngoài trụ sở của họ đã thành một địa điểm
tập họp của những người chống lại sự hoà giải với nhà vua. Mặc dù có các đội ngũ
đông đảo vệ binh sẵn sàng trong vị trí, các đại biểu không thể nào đi vào phòng
họp mà không phải đi ngang qua đám đông
những hàng người nam nữ giận dữ la ó chửi rủa, tố cáo họ tội phản bội, đôi khi
còn vung lao vung gậy lên. Giận dữ vì sự bất ổn mỗi ngày mỗi lớn thêm trong thành
phố trong nhiều tháng, phe trung hoà đang nắm quyền kiểm soát Hội Đồng Cách Mạng giờ giải quyết bằng cách đối đầu để thoát khỏi
sự đe doạ của công chúng một lần cho xong. Vào ngày 16 tháng Bảy, viên thị trưởng
Bailly được triệu hồi tới trước Hội Đồng và bị công khai khiển trách vì sự dung
túng cho các hành động của đám đông. Đặc biệt Charles Lameth rất cương quyết. Ông
ta biện luận rằng mọi bất ổn là do một nhóm nhỏ người gây rối kích động xúi giục
có lẽ do bọn nước ngoài mua chuộc và những
người hướng dẫn một cách sai lạc cư dân Paris theo họ hành động chống lại chính
lợi ích của mình. Ông ta muốn nghiêm khắc trừng phạt Bailly và các nhà lãnh đạo
thành phố vì đã nhắm mắt làm ngơ trước những hỗn loạn, và ông cũng đòi hỏi rằng
họ phải dùng mọi phương tiện Hiến Pháp cho phép để khám phá và trừng phạt bọn kích
động và bảo đảm bình an và sự ổn định cho toàn thể công dân.
Suốt buổi chiều
và buổi tối ngày 16 tháng Bẩy, phe Cordeliers và các đồng minh thận trọng đặt kế
hoạch cho một buổi ký thỉnh nguyện thư thật lớn lao sẽ xảy ra vào ngày hôm sau,
cho dù câu lạc bộ Jacobins có ủng hộ hay không. Dân quân từ khắp nơi trong thành
phố sẽ tập trung tại công trường tự do gần khu vực ngục Bastille đã bị phá vào lúc
11 giờ sáng để diễn hành qua phố tới vận động trường Champs de Mars, đi theo đúng
lối đi mà các nhà lãnh đạo quốc gia và thành phố đã đi 3 hôm trước trong ngày mừng lễ 14 tháng Bẩy. Dấu hiệu dường như thật
rõ ràng: các hiệp hội thân hữu anh em giờ
thay thế cho giới quản trị ưu tú mà quyền bính của họ không còn được công nhận
nữa. Những người cầm đầu thành phần chống đối cũng hăng hái duy trì một cuộc xuống
đường bất bạo động và đưa ra các chỉ thị rằng không ai được mang theo vũ khí, dù
chỉ là một cây côn hay gậy gộc. Nhưng một số cá nhân dự đoán sẽ có rắc rối, và đã
có những bàn luận nên mang theo những túi
đầy đá trong trường hợp bị đám vệ binh bảo vệ trấn áp. Một số người còn mang
theo súng ngắn giấu trong áo.
Cuối cùng, cuộc
diễn hành qua phố đã không thể thực hiện. Lafayette và những người phụ tá đã được
thông báo về kế hoạch của đám diễn hành, và đám vệ binh bảo vệ luôn bận rộn suốt
đêm giải tán các cuộc tụ họp ngoài đường bất cứ nơi nào họ nhìn thấy. Sáng sớm
hôm sau Chúa Nhật 17 tháng Bẩy, khi các hiệp hội quần chúng cố gắng tụ tập tại công trường Bastille, họ
thấy hàng trăm vệ binh đã chiếm trọn vị trí và ngăn chận họ lại. Sau một khoảnh
khắc lúng túng, những người xuống đường từ bỏ kế hoạch diễn hành qua phố mà tỏa
ra mọi nẻo đường có thể đi được để đi đến Champs de Mars.
Mặc dù ban tổ chức
đã nỗ lực hết mình, vẫn có một số bạo loạn xảy ra trong ngày. Có lúc người ta ném
đá vào đám vệ binh và có người đã cố bắn Lafayette nhưng khẩu súng đã bị kẹt đạn.
Tuy nhiên, sự kiện nghiêm trọng nhất trong ngày xảy ra ngay tại vận động trường,
và nó đã làm thay đổi toàn bộ sắc thái của biến cố. Vào gần giữa trưa, trước
khi các hiệp hội anh em và
các ủng hộ viên của họ tới, một nhóm người thuộc khu lân cận cùng tham dự tại Champs de Mears quan sát thấy có
2 người đang ẩn núp tại bàn thờ Quốc Tổ nằm ngay trung tâm của vận động trường.
Một tay trai trẻ có nghề làm tóc giả và một người già hơn có một chân gỗ đang
lom khom với một túi rượu và đồ ăn cùng với một số dụng cụ thợ mộc. Sau này, các
nhà bình luận tin rằng, có lẽ 2 người này chỉ tính khoan vài lỗ để nhìn trộm đám
đàn bà từ bên dưới khi họ đi ngang qua bàn thờ để ký thỉnh nguyện thư. Tuy nhiên,
tin đồn lan ra nhanh chóng rằng họ đang âm mưu cho nổ bom giết các nhà ái quốc.
Một ít người trong đám đông muốn hộ vệ 2 tội nhân giải qua giới chức địa phương
có thẩm quyền để thẩm vấn, nhưng những người khác, bao gồm một nhóm thợ thuyền,
các bà nội trợ và các công nhân khác đang
sống gần đó đã bắt giữ 2 người lôi đi xử tử ngay tại chỗ rồi cắt cổ bêu đầu.
Một khi buổi lễ
ký kết thỉnh nguyện thư đã bắt đầu, mọi việc dường như tiến hành trôi chảy và
an bình. Bây giờ, phe Jacobins đã rời bỏ khu vực. Franҫois Robert, một nhà báo
thuộc cánh Cordeliers cực đoan đã in ấn các truyền đơn cộng hoà tháng Mười Hai
năm trước, ngồi trên những bậc cấp tại bàn thờ, ông đặt một tấm ván lên lòng và
đặt bản thỉnh nguyện thư lên trên. Bản thỉnh nguyện thư mạnh mẽ tố cáo Louis
XVI và tuyên bố rằng ý nguyện của nhân dân là chấm dứt vương triều. Bản thỉnh
nghuyện thư cho rằng lúc này Hội Đồng Cách mạng bị chi phối bởi 250 đại biểu bảo
hoàng, những người từ chối lên án nhà vua. Mặc dù Robert thận trọng né tránh từ
ngữ “cộng hoà”, nhưng ý nghĩa thật rõ ràng: “Các đại biểu bị thúc giục phải cứu
xét lại quyết nghị và triệu tập một bộ
phận cử tri đoàn mới để phán xét đối tượng có tội (nhà vua) và thay thế vua bằng một tổ chức hành pháp mới. Đó là một
sự kêu gọi rất rõ ràng cho một cuộc cách mạng mới và một cuộc bầu cử Hội Nghị
Toàn Quốc để thành lập một chính quyền trung ương không có vua cầm đầu.
Bẩy hay tám bản
sao tờ thỉnh nguyện thư được nhanh chóng in ra và đặt ở nhiều vị trí khác nhau
quanh vận động trường. Chẳng bao lâu, hàng đoàn người dài nối đuôi nhau để ký tên
hay điềm chỉ vào đó. Giờ đây chúng ta chỉ được nghe kể lại từ những người đã
xem văn kiện chính thức trước khi nó bị phá huỷ vào thế kỷ 19. Theo họ thì đã có
khoảng 6000 người đã ký tên vào đó cho đến khi buổi lễ bị gián đoạn. Họ đại diện
cho đủ mọi thành phần dân chúng Paris. Một số ít họ là các chuyên gia, công chức
địa phương và có cả vệ binh quốc gia, nhưng đa số là thành phần dân lao động cả
nam lẫn nữ, có nhiều người không biết ký tên. Có ước chừng 50,000 người khác cũng
lợi dụng một ngày Chúa Nhật đẹp trời để đổ ra đường theo dõi các diễn tiến.
Nhưng trong mắt
của Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia (HĐCMQG), hành vi bất bạo động của đại đa số những
người ký thỉnh nguyện không thể che lấp nổi cảnh giết người trước đó hay sự đe
doạ tiềm ẩn của nó cho sự toàn vẹn của lãnh đạo Cách Mạng. Vào lúc xế trưa, Hội
Đồng lại tuyên bố ra một bức thư phẫn nộ gửi tới Bailly và hội đồng quản trị địa
phương, yêu cầu họ phải có những biện pháp mạnh mẽ và hữu hiệu nhất để ngưnng lại
tình hình vô trật tự và tìm cho ra những tay kích động. Michel-Louis Regnaud, một
tay hùng biện trẻ thuộc vùng Tây Nam nước Pháp lớn giọng: “Đã đến lúc phải áp dụng
sự nghiêm khắc của pháp luật.” Quả thực, nếu luật lệ trong tay ông ta: “Tôi
sẽ lập tức tuyên bố thiết quân luật.” Trong cái trạng thái ngày càng thêm bất ổn
và dưới sức ép liên tục của Hội Đồng (HĐCMQG), hội đồng thành phố cuối cùng phải
hành động. Trong một bài diễn văn, thị trưởng thành phố nối kết toàn bộ sự kiện
với một âm mưu của bọn gián điệp nước ngoài: “Rõ ràng có một âm mưu chống lại
Hiến Pháp và đất nước được hỗ trợ tài chính từ bọn nước ngoài nhằm mục đích
chia rẽ chúng ta. Chính họ đamg ẩn núp đàng sau đủ thứ nguỵ trang để xúi giục các
phong trào quần chúng.” Chúng ta sẽ không
bao giờ biết viên thị trưởng có thực sự tin những gì ông nói hay đơn giản chỉ là
tự biện hộ cho mình trong một tình thế không thể nói khác. Nhưng vào lúc 5 giờ
rưỡi chiều, Jean-Sylvain Bailly, một nhà khoa học và hội viên viện hàn lâm Khai
Sáng, bạn một thời của Voltaire và Benjamin Franklin, đã ra lệnh trương cờ đỏ
biểu hiệu sự áp đặt tình trạng thiết quân luật trong hội trường thành phố và tuyên bố tổng động viên.
Vào lúc 6 giờ rưỡi,
ông ra khỏi hội trường thành phố, cùng đi
với ông có một bộ phận của hội đồng thành
phố và 2 đội kỵ binh vũ trang. Các nhân chứng nhãn tiền tuyên bố rằng họ được
mgười dân hoan hô khi đi ngang qua thành phố, nhưng rải rác cũng có những tiếng
la chế nhạo, đặc biệt sau khi họ đã vượt qua sông Seine đi về phía tả ngạn. Tới
gần vận động trường, họ gặp Lafayette và thêm nhiều đội vệ binh đã tề tựu tại
chỗ. Tới lúc này những mgười xuống đường
và người đi xem trong hội trường bắt đầu cảnh giác với đội quân đi tới. Nhưng
nghị định chính thức của thiết quân luật xác định rõ ràng rằng không được xử dụng
lực lượng võ trang cho tới khi thị trưởng thành phố đã tuyên bố xong ba chỉ thị
liên tiếp nhau yêu cầu đám đông giải tán. Những người cầm đầu cuộc xuống đường
hối thúc mọi người giữ bình tĩnh và không bỏ đi cho tới khi có mệnh lệnh đầu tiên
trong trong ba chỉ thị được ban hành.
Khi những vệ
binh vũ trang đầu tiên tiến vào hành lang đi vào vận động trường qua cái bờ kè
bằng đất được xử dụng như một khán đài lớn, nhiều người xuống đường bắt đầu la
lớn phản đối: “dẹp gươm đao, dẹp cờ quạt đi.” Không lâu sau, vài người ở các khán
đài chung quanh ném đá vào đám vệ binh. Chuyện xảy ra sau đó thì hỗn loạn mập mờ
mà người ta kể lại tuỳ theo vị thế chính trị của các nhân chứng. Một cách hiển
nhiên là sau một ít phút, có một tiếng súng nổ, viên đạn không chắc có gần thị
trưởng Bailly không nhưng trúng vào hông một tay kỵ binh làm anh ta té xuống ngựa.
Được cảnh báo là có bạo động chống lại họ, vệ binh liền mau chóng tiến vào với
nhịp trống dồn dập và chiếm lấy vị trí bên trong vận động trường đối diện ngay
mặt Bắc của bàn thờ trung tâm. Không có một lệnh lạc giải tán nào theo như luật
định được loan báo. Bọn lính tuyên bố rằng, lúc đầu họ đã bắn nhiều loạt đạn cảnh
báo lên trời. Nhưng với hàng loạt đá sỏi ném vào họ, còn những người xuống đường
khác cố đâm thủng trống của họ, vệ binh đã bắn vào đám đông, nhắm chính vào những
người đang đứng trên các khán đài, nhưng cũng bắn cả vào những người đứng dưới
sân. Lớp vệ binh thứ hai tiến vào từ phía
đối diện với bàn thờ và bắt đầu đột kích về hướng Bắc trong một thế tấn công gọng
kềm bắt giữ nhiều người. Rõ ràng có nhiều vệ binh cưỡi ngựa đuổi theo người ở bên
ngoài vận động trường tới những cánh đồng và vườn tược chung quanh, giẫm đạp lên
một số người và vung kiếm chém nhiều người khác. Theo như ông già Nicolas-Célestin
Guittard de Floriban, người có mặt tại hiện trường và không có thiện cảm với những
người biểu tình thì việc bắn giết tiếp tục trong ít nhất 3 phút. Một sự hoảng
loạn thông thường xảy ra, và để tự cứu mình, người ra xô đẩy và giầy xéo lên đàn
bà trẻ em. Ông ta tường thuật rằng, nhiều thương vong ở trong số những người
qua đường, những người mà trong mọi tình huống thường bị thu hút vì sự hiếu kỳ
và vì một ngày Chúa Nhật đẹp trời.
Khi đám lính ngưng
tấn công, đã có mấy chục người cà nam lẫn nữ bị thương hay hấp hối nằm la liệt
trong hội trường hay trên các cánh đồng chung quanh. Không có tài liệu nào cho
biết con số chính xác. Chính viên thị trưởng Bailly trong bản báo cáo ngày hôm
sau đã tuyên bố là chỉ có 12 người biểu tình và 2 quân nhân bị giết. Nhưng anh
chàng Guittard, một người thường rất cẩn trọng đã nổi giận khi nghe câu tuyên bố
của Bailly: “Ông ta nói không đúng. Thật là tàn tệ quá! Ai cũng biết số người
bi giết đông gấp bội.” Một cư dân sống gần đó đi thăm bệnh viện bên ngoài vận động
trường đã chứng minh rằng ông ta đã nhìn thấy người chết nằm la liệt khắp nơi.
Hàng loạt các đánh giá đương thời đã định thêm số lượng từ vài chục tới trên
2000 người. Nhưng Franҫois Robert, người đã thành công trốn khỏi hiện trường và
ẩn náu vào thời điểm đó cùng với vợ chồng Marie-Jeanne Roland thì tuyên bố vào khoảng 50 người bị sát hại và rất đông số
lượng người bị thương. Đây là con số được xử dụng vào thời điểm xét xử Bailly trong
giai đoạn Khủng Bố và có lẽ được các sử gia đánh giá đáng tin cậy nhất.
Hành động trốn
chạy bất thành của nhà vua và những nỗ lực của HĐCMQG để chống chọi với những hậu
quả của nó đã dẫn đến một cuộc tắm máu trong nội thành Paris. Ngay cả với số đông
cư dân Paris ủng hộ quyết định của Hội Đồng về nhà vua cũng bị sốc vì nhữnh cảnh
bắn giết tại Champs de Mars. Guittard viết rằng: “Không ai có bao giờ có thể quên
tội ác khủng khiếp này.”
No comments:
Post a Comment