Chương 6: Lo sợ và đàn
áp tại các tỉnh lỵ
Đối với cư dân thành Paris trong thời kỳ Cách Mạng và
với hầu hết các nhà viết sử, cuộc tàn sát tại Champ de Mars là một biến cố đơn
lẻ bi thảm nhất sau cuộc trốn chạy của nhà vua. Tuy vậy, thành phố Paris chỉ đại
diện cho một phần nhỏ của nước Pháp vào năm 1791, có lẽ dân số Paris chừng
700,000 trong toàn thể 28 hay 29 triệu của hàng chục ngàn làng xã phố thị trên
toàn vương quốc. Người ta không thể hiểu toàn bộ tác động của vụ Varennes mà không
đi xa rời hai bờ sông Seine và theo dõi
những phản ứng của cả vùng lãnh thổ trải dài của nước Pháp, từ vùng biển Bắc tới
Địa Trung Hải, từ dòng sông Rhine tới rặng Pyrenees, từ bán đảo Breton tới dãy
núi Alps.
Tại các tỉnh lỵ
cũng như tại Paris, tin tức về việc nhà vua bỏ trốn và rồi bị bắt lại đã gây nên
một cảm giác lạ thường. Ông thầy tu Lindet viết: “Nước Pháp như bị điện giật. Cảm
giác như đi từ một đầu vương quốc tới đầu đối nghịch bên kia thật quá nhanh đến
không thể tin được. Lúc đầu nguồn tin ùa
đến từ thủ đô bởi những người đưa tin chính thức. Ngay sau khi tướng Lafayette
nhận được tin hoàng gia biến mất vào sáng sớm 21 tháng Sáu, ông đã phái những
phụ tá đáng tín nhiệm chạy hết tốc lực
trên nhiều con đường khác nhau trong một nỗ lực đi tìm và ngăn chặn vua lại. Vài
giờ sau, Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia cũng theo cùng một phương thức để gửi những
người đưa tin của họ mang những bản quyết nghị vắn tắt tạm thời của các đại biểu
tới các vùng biên giới mặt trận Áo-Đức, hướng đi mà cuộc trốn chạy nhắm đi tới nhất.
Nhưng chẳng bao lâu sau đó, một loạt các người đưa tin không chính thức
từ thủ đô cũng bung ra tìm. Nhiều đại biểu thuộc Hội Đồng cũng thuê mướn các kỵ
sĩ tư nhân để thông tin cho cử tri của họ một cách mau nhất, và trên đường đi,
các kỵ sĩ đã truyền bá tin tức một cách bừa bãi bất cứ nơi nào họ cưỡi ngựa đi
ngang. Một số các câu lạc bộ tại Paris và các vùng lân cận dường như cũng làm
chuyện tương tự. Như vậy, vùng Saint-Quentin ở phía Bắc nước Pháp biết về các
biến cố từ vùng Quatre-Nations có lẽ qua sự kích động của nhóm câu lạc bộ
Cordeliers. Báo chí Paris cũng nhanh chóng tận dụng câu chuyện thời sự nóng bỏng
với những ấn bản được gửi đến khắp các tỉnh lỵ.
Một khi tin tức đã
vượt qua bức tường thành của thủ đô, nó mau chóng vang dội qua các mạng lưới thông
tin liên lạc cùng một phương cách như biến loạn “Đêm Hãi Hùng” hai năm trước, với
đủ mọi loại người hoặc cưỡi ngựa, hoặc đi xe và ngay cả chạy bộ bung ra khắp đất
nước. Những người du hành ngẫu nhiên và các thông tín viên địa phương tình cờ sánh
đôi cùng với những người đưa tin chính thức. Cư dân tại các thị trấn và làng xã
nghe được tin qua những nguồn không chính thức, đôi khi là những phiên bản bị cắt
xén và kỳ lạ, càng làm tình hình thêm căng thẳng. Cư dân vùng Bar-Le-Duc nhớ lại:
“Nỗi lo âu của chúng tôi cứ tăng dần theo thời gian trong khi chờ đợi thêm các
tin tức.” Theo nhận thức của họ, các viên chức đã gửi đi những thông tín viên của
riêng họ dọc theo đường dây chuyền, và họ cũng tìm ra sự quả quyết và thêm các
chi tiết hơn nữa. Chẳng bao lâu đã có một
hệ thống báo chí qua cửa miệng của các thông tín viên kỵ sĩ trên khắp các nẻo
đường và họ trao đổi nhau các thông tin có xác thực có sai lạc khi họ gặp nhau
trên đường.
Vào giữa khuya đêm
thứ Ba 21 tháng Sáu, nguồn tin nhà vua biến mất đã lan ra khỏi Paris chừng 100
dặm theo kiểu vết dầu loang trải dọc theo các con lộ chính. Sau một chút chậm lại
khi vượt qua các cổng thành, nơi các vệ binh lúc đầu quá nhiệt tình chặn lại mọi
di chuyển, các người đưa tin đã cưỡi ngựa đi khỏi Châlons-sur-Marne lên tới phía
Đông và từ Cambrai lên tới mạn Bắc. Nhưng vào cuối ngày thứ Tư, tin tức lan đi
cả ngày lẫn đêm với tốc độ 5-6 dặm một giờ giống như ngọn lửa bén theo thuốc súng.
Và tin nhà vua chạy trốn đã tiến tới hầu hết các vùng mặt trận phiá Bắc xa tới
tận Netz, Nancy ở phía Đông, Rouen ở phía Tây và Moulins ở phía Nam. Một người đưa
tin, có lẽ do đại biểu Breton gửi đi đã tới tận Nantes ở cửa sông Loire. Qua ngày
thứ Năm, tin tức về biến cố đã lan tới vùng mặt trận Đông Bắc dọc theo biên giới
Đức và Thụy Sĩ cùng hầu hết bờ biển Đại Tây Dương từ Dunkerque tới La Rochelle,
ngoại trừ vùng bán đảo Breton. Các kỵ sĩ tiến vào Strabourg ở trên dòng sông
Rhine vào lúc 5 giờ sáng, tới Lyon, thành phố lớn thứ nhì của Pháp 10 giờ rưỡi đêm.
Vào sáng tinh mơ ngày thứ Sáu, thành phố cảng Bordeaux nhận được báo cáo và lại
đưa tin tức đáng sợ qua sông Garonne tới Toulouse vào khoảng 8 giờ tối.
Vào cuối ngày thứ Bẩy, họ đã tới Narseilles và vùng Địa Trung Hải, chạy dọc
theo bờ biển đi qua cảng Toulon tới vùng phía Đông và qua Perpignan tới phía
Nam chỉ cách biên giới Tây Ban nhà chừng 20 dặm. Cùng thời điểm đó, tin tức cuối
cùng lan tới Brest ở trên đỉnh Brittany.
Nhưng cần thêm một hay hai ngày nữa để tin lan tới những làng mạc xa xôi trên núi nhất là tại Pyrenees, Alps và Massif Central. Ngôi làng Aumont, nơi chỉ có
thể tới được qua đường mòn trên núi qua những ngọn núi Gévaudan ở Đông Nam vẫn
chưa có thông tin mãi cho đến tuần lễ kế tiếp.
Khi Louis và cả đoàn
của nhà vua đã bị nhận dạng và ngăn chặn lại, lại một làn sóng tin tức ngược toả
ra từ Varennes với cùng một phương cách. Ông thợ cạo Mangin đã ngày đêm cưỡi ngựa
để mang tin tới Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia trong vòng 24 giờ. Nhưng những nơi
khác, làn sóng thứ hai đưa tin thường di chuyển chậm hơn một chút, có lẽ vì lúc
đầu nó được chuyển qua bằng hệ thống thông tín viên địa phương, cho đến khi có
thông cáo chính thức từ thủ đô được chuyển lại
vào 23 tháng Sáu. Nó chỉ tới Bordeaux sau 5 ngày, Toulouse 6 ngày và
Perpignan 7 ngày kể từ khi nhà vua bị bắt lại. Vì sự nhầm lẫn về các dòng tin
luân lưu xuôi ngược được phát ra từ nhiều nguồn tin khác nhau, nhiều thị trấn
chỉ biết đến vụ Varennes vài tiếng đồng hồ sau khi vừa mới nghe về tin nhà vua biến mất khỏi
cung điện Tuileries, và trong vài nơi còn được tin sau tới trước nữa.
Đó là một trong
những biến cố tác động mãnh liệt tới cảm xúc đến nỗi người dân sẽ ghi nhớ suốt
đời họ về vị trí và công việc họ đang làm khi mới nhận được thông tin. Tùy thuộc
vào ngày giờ mà những người đưa tin đi tới, tin tức đến với họ ở tại cánh đồng,
trong cửa tiệm đang làm việc, tại buổi đi diễu hành ngày lễ Thánh Thể hay đang
ngủ tại nhà và được đánh thức bởi tiếng chuông nhà thờ giữa đêm. Tại một số thị
xã, người dân đang ở trong những buổi hội họp sơ cấp, được triệu tập để chọn lựa
một hội đồng lập pháp mới khi tin về cái sự kiện nhà vua biến mất đến làm mọi người trở nên xôn xao náo động. Hầu
hết khắp nơi, mọi người dân kể lại trong những bức thư gửi tới HĐCMQG là tin tức
mà họ không bao giờ mong mỏi khiến họ đau khổ tột cùng, mặt mày choáng váng và
vô cùng hoài nghi. Ở thị trấn Auch phía Nam, cảm xúc của họ lên cao ngất; tại
Beauvais phía Bắc Paris, mọi người rất đỗi buồn phiền vì cái biến cố đáng sợ này
gây nên đau đớn cho đất nước; tại Châteroux thuộc trung tâm nước Pháp, người dân
cảm nhận có một vực sâu tội lỗi và chịu đựng tâm trạng như đang ở trong tình trạng
bị tra tấn rất đớn đau. Nhóm Jacobins tại vùng Montmorillon có lẽ đã diễn tả cái
cảm giác của nhiều người khi họ kể lại niềm hy vọng của họ ngay trong đêm biến
cố Varennes rằng: “Cách Mạng cuối cùng đã hoàn thành, các đe doạ phản cách mạng
đã chấm dứt và rằng giờ chúng ta có thể trở lại cuộc sống thường ngày. Nhưng sự
biến mất của nhà vua đã đập tan mọi hy vọng của chúng ta và điều đó đã cảnh báo
chúng ta rằng đừng mong Cách Mạng trở lại.”
Ý nghĩa của tình huynh
đệ
Đối đầu với tình trạng khẩn cấp chưa hề xẩy ra này
trong cả nước chính là các viên chức của một chính quyền khu vực chỉ vừa mới thành
lập. Cuộc Cách Mạng đã đưa đến một sự tái cơ cấu và dân chủ hoá đầy bi kịch về
hệ thống quản trị, với hơn 30 quan lại và tổng đốc trong triều đại cũ do vua đề cử được thay thế bằng hàng ngàn các
đại biểu được bầu chọn. Chính họ sẽ tuyển lựa nhân viên cho hệ thống hành chánh
mới cho một nước Pháp giờ được phân chia thành 83 tỉnh, 500 quận và 40,000 thị
xã lớn nhỏ. Với rất ít hoặc không có kinh nghiệm trong các vị trí đó, nhân viên
phải trải qua một cuộc huấn luyện tại chỗ lớn lao trong cả năm trước đó. Thỉnh
thoảng, họ phải vật lộn với một số lượng rất nhiều những luật lệ mới và những
chỉ thị mà HĐCMQG gửi xuống trong hầu hết mọi lãnh vực kinh tế, tài chánh, tôn
giáo và cả về đời sống nông thôn. Nhưng trong hầu hết lãnh vực, đặc biệt ở cấp
tỉnh và quận và các thị trấn lớn, ban quản trị mới được chọn từ những nhà trí thức chuyên môn và
các thương gia ưu tú. Họ đã đi theo và bám chặt lấy Cách Mạng ngay từ buổi đầu
và họ đã sẵn sàng, tự tin và đã kiên quyết thực thi nhiệm vụ hết sức mình.
Bị thúc đẩy phải hành động vì cuộc khủng hoảng, các
viên chức nhanh chóng tổ chức các ủy ban cấp cứu, mang đại diện từ khắp các
trung tâm quyền lực trong khu vực lại với nhau. Trong một thủ phủ điển hình tại
Auch, Lyon hay Beauvais, giới chức thẩm quyền tỉnh lỵ triệu tập các đại biểu từ
các quận lỵ trực thuộc và các hội đồng thị xã địa phương cũng như các toà án, các
câu lạc bộ ái quốc, các vệ binh và cả quân đội chính quy. Nếu một thị trấn chia
ra nhiều khu xóm như trong các thị xã to lớn nhất, hay khi các hội đồng bầu cử địa
phương đang bận hội họp, các bộ phận này được mời gửi đại diện tới. Như vậy, tại
thị trấn Thionville vùng Đông Bắc, chỉ trong ít phút, hơn 100 người đã tề tựu tới
văn phòng thị trưởng, nơi có chỗ chứa lớn nhất và nhiều người trong số họ đã ở
lại vị trí trong suốt ba ngày liên tục.
Cái cách tập trung để giải quyết khủng hoảng này dù có
phải là cách hữu hiệu nhất hay không, thì nó cũng mang lại một sự liên kết đang
rất cần thiết. Đặc biệt trong các cộng đồng rộng lớn hơn, nơi có nhiều cấp độ
thẩm quyền hiện hữu bên cạnh nhau, các tổ chức đối lập đã nổi lên trong suốt năm
qua giữa tỉnh và quận, giữa quận và thị xã hay giữa thị xã và tỉnh. Nhưng lúc này,
khi phải đối đầu với một tình trạng khẩn cấp bất ngờ đến sững sờ, mọi viên chức
các cấp lấy tiêu chí liên hiệp và hợp tác là ưu tiên cao nhất. Các nhà ái quốc đã
chứng minh cái cảm giác hoà đồng mới tìm thấy này qua những lá thư gửi đến HĐCMQG.
Các vị lãnh đạo ở tỉnh Dieppe sát eo biển English viết: “Tại thị trấn này có một
sự liên kết lớn lao nhất giữa những bộ phận nắm giữ quyền lực khác nhau.” Tại
Lyon, các nhà ái quốc được thuyết phục rằng sự an nguy của họ tuỳ thuộc vào sự
liên kết nhanh chóng của tất cả các giới chức thẩm quyền và với niềm tự tin
chung mà một uy lực như vậy sẽ mang đến.” Để củng cố cái cảm giác vì mục đích
chung, thị trấn Saint-Quentin đã yêu cầu cả nam
lẫn nữ cùng đeo một dải băng đặc biệt có hàng chữ: “Hãy liên hiệp! để sống
trong tự do hay là chết!” Quả thực, trong một số thị xã, các giới chức địa phương
đã chỉ thị cho toàn thể cư dân khẳng định
sự đoàn kết qua việc đeo huy hiệu Cách Mạng trên nón, một huy hiệu ba màu
đã trở thành một trong những biểu hiệu của các người yêu nước tại Paris.
Còn có những biểu tượng đầy kịch tính khác về sự liên
kết mang những lờì thề hứa đầy cảm xúc mà mọi người khắp nơi tự cấu tạo ngay
sau khi biết được sự biến mất của nhà vua. Người dân thị trấn nhỏ Juillac ở trung
tâm nước Pháp khi hội họp trong sảnh đường
bầu cử của họ đã nhắc lại một cách sống động cái giây phút vừa nghe được nguồn
tin. Lúc đầu, họ sững sờ đến ngồi im lặng một cách rầu rĩ. Thình lình, viên chủ
tịch hội đồng thị xã đứng dậy hai tay đưa lên trời tuyên bố một lời thề đầy nhiệt
tâm: “Tôi xin thề bảo vệ đất nước, luật pháp và Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia đến
gịọt máu cuối cùng. Tôi xin thề hoặc sống trong tự do hay là chết.” Ngay tức khắc,
tất cả những người có mặt đều đứng dậy giơ tay lên trời và đồng thanh la lớn:
“tôi cũng xin thề như thế!” Mọi người xếp hàng dọc đi ra khỏi phòng, đồng thuận
với một mục đích chung mới. Họ kéo nhau ra sảnh đường thành phố nơi các hội viên
của nhóm câu lạc bộ Jacobin địa phương và các vệ binh cũng chung một lời thề.
Lần lượt thị trấn này qua thị trấn khác, lãnh đạo dân
sự cũng như thường dân nam nữ già trẻ, dân quân hay binh lính và ngay cả một số
rải rác các nhà quý tộc và giáo sĩ yêu nước cũng xôn xao bày tỏ những lời thề của
riêng họ. Hầu hết họ làm một cách tự phát, ngay cả trước khi biết những tuyên bố
tương tự được hăng hái tuyên thệ tại
Paris trong ngày 23 tháng Sáu. Và trong đa số trường hợp, họ thay thế từ “vua”
bằng từ “HĐCMQG” trong lời tuyên thệ trước đây từng xử dụng. Tại Valenciennes gần
biên giới nước Áo: “Chúng tôi nguyện lấy máu mình để bảo vệ tự do và hạnh phúc
của đất nước.” Tại Tours, buổi lễ được cử hành ngoài trời gần sông Loire với hàng
ngàn tiếng nói liên kết trong một lời thề hy sinh mạng sống để duy trì Hiến Pháp. Bên dưới những bức tường tại thị trấn
Saint-Malo trên bán đảo Breton, 4000 vệ binh vũ trang cùng với 2000 phụ nữ và
trẻ em đã thề hứa trung thành với quốc gia và Hiến Pháp. Tại Cahors ở trung tâm
miền Nam nước Pháp, cả nam lẫn nữ công bố lời thề tại các vị trí riêng: “phụ nữ đứng gần khu vườn đã
bắt chước cánh đàn ông lập lại những khẳng định của họ về lòng ái quốc và tình
anh em trong một cử chỉ thật xúc động.
Trong sự việc gần như bị ám ảnh với lời thề nguyền vào giây phút khủng
hoảng, người ta xử dụng một thứ ngôn ngữ biểu trưng mà hầu như ai ai cũng quen
thuộc. Họ sống trong một thế giới nơi những lời thề hứa nghiêm trọng như thế này
phải giữ lại được cá tính tôn giáo và duy trì được những hành động cần thiết để
đi vào quân đội, hàng giáo phẩm, hay các toà án. Những người có học thức cũng
quen thuộc với truyền thống tuyên thệ kiểu Hy Lạp hay La Mã cổ xưa, một truyền
thống mà những lời thề phấn khích của HĐCNQG đã trực tiếp mang lại từ lúc ban đầu
của cuộc Cách Mạng. Lời thề tháng Sáu 1789 khi Hội Đồng được thành lập và lời
thề trên sân Tennis ba ngày sau đó đã được công khai rộng rãi, gây cảm hứng cho
cả nước với một sự thi đua đầy thích thú. Càng phổ biến hơn nữa với những làn sóng
tuyên thệ vào tháng Hai và tháng Bẩy 1790, như một phần của các lễ hội toàn quốc
ăn mừng trên khắp đất nước. Nhưng những
lời thề trước đây luôn luôn có vẽ trừu tượng sao đó và được tuyên thệ trong những
phút giây yên bình. Lúc này, người dân Pháp thấy mình đang đối diện với cái
nguy hiểm thực sự của chiến tranh và sự xâm lược. Chính trong bối cảnh này, giờ
phút vô cùng căng thẳng này mà họ thường gắn bó với khẩu hiệu: “tự do hay là chết”
Đối với những người giờ phải đối đầu với viễn ảnh sống trong một đất nước không
có một vị vua, một cá nhân luôn luôn được coi là đại diện cho sự đoàn kết của đất
nước, việc thề thốt còn giữ thêm một mối liên quan. Đó là một biểu hiệu rõ ràng
của một sự đoàn kết trong tình yêu nước và một sự sẵn lòng cùng làm việc và cùng
chết với nhau cho sự tốt đẹp hơn của cộng đồng đất nước. Với điều này, sự dấy lên
phong trào thề hứa vào tháng Sáu 1791 đóng một vai trò quan trọng trong việc làm
dịu bớt nỗi lo lắng và làm thấm vào lòng người một cảm giác vì mục đích chung. Đó
là những giờ phút báo hiệu sự xuất hiện của chủ nghĩa quốc gia Pháp.
Kẻ ngoại thù
Nhưng những lời thề trung thành và quyết định chết
cho tổ quốc tự chúng khó lòng đầy đủ để đối đầu với khủng hoảng. Các ủy ban cứu
cấp trong cả nước Pháp đối diện với nhu cầu tổ chức một sự đáp trả ngay với đủ
loại các nguy nan mà cộng đồng của họ có thể phải đương đầu. Những quyết nghị
ban đầu của HĐCMQG chỉ đưa ra những đề cương sơ đẳng cho hành động. Bản tuyên bố
in ấn được gửi đi ngày 22 tháng Sáu chỉ thị các ủy ban quản trị ngăn chận tất cả
mọi di chuyển tại các vùng biên giới mặt trận của người dân, vũ khí đạn dược,
kim loại quý và lừa ngựa, đồng thời xử dụng mọi bước cần thiết để duy trì luật
pháp và trật tự cũng như bảo vệ đất nước. Thế nhưng, từ vùng này qua vùng khác,
đã có đủ loại các cách thức khác nhau tuỳ theo dân địa phương diễn dịch và thực
thi những quyết nghị này.
Đối với những thị trấn kế cận bờ biển hay tại biên giới
với nước ngoài, điều quan tâm ngay tức khắc là sự đe doạ từ bên ngoài. Đối với đa
số người dân dù tại Paris hay tỉnh lỵ, nói tới chuyện trốn chạy của nhà vua thì
sự kiện dường như rõ ràng. Dù nhà vua tự ý bỏ đi hay bị bắt cóc, mọi người vẫn
cho rằng nhà vua đã rời bỏ đất nước. Một khi hoàng gia đã vượt qua biên giới nước
Pháp thì dường như chiến tranh là hậu quả không thể tránh khỏi. Đối với thị trấn
Mézières chỉ cách biên giới vài dặm, cuộc chạy trốn chỉ có thể là đã được bảo đảm
qua giới chức cầm quyền nước Áo, quốc gia lúc này đã lộ ra ý đồ rõ ràng sẽ gây
chiến với Pháp. Các nhà lãnh đạo thị trấn Dole gần biên giới Thuỵ Sĩ và Đức cũng
đồng ý: “Lúc này, chúng ta cần phải tự coi như đang ở trong thời kỳ chiến tranh
và mối nguy đang gần đến.” Và rồi họ ban hành những chỉ đạo chi tiết cho sự động
viên toàn thể xã hội, thiết lập các phương thức mà mọi công dân có thể cộng tác
cả thời gian và tiền bạc cho việc bảo vệ quê hương.
Dường như ngay sau khi họ biết về cuộc khủng hoảng, các
nhà lãnh đạo ở biên giới hay ở các vùng sát biển đã gửi đi các đơn vị vệ binh và
binh lính chính quy tới thiết lập những hàng rào quốc phòng và cứ điểm bảo vệ xâm
lăng. Thành phố Strasbourg khởi động đóng quân dọc theo bờ sông Rhine. Longwy,
một thị trấn biên giới phía Bắc Luxembourg đốc thúc các làng mạc biên giới tự vũ
trang và chuẩn bị chiến tranh. Tại Provence, một đoạn đường bị cô lập dành cho
sự phòng thủ được dựng lên dọc theo biên giới với nước Ý và tại Perpignan, các
phân đội vệ binh được chỉ thị canh giữ những lối đi qua rặng núi Pyrenees và bờ
biển Địa Trung Hải gần Tây Ban Nha. Những bước phòng thủ tương tự được thực thi
dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Bordeaux và Dieppe tạm thời đóng cửa hải cảng,
một việc đi quá khỏi tầm chỉ đạo của Paris. Rouen thiết lập những trạm quan sát
trên eo biển English từ Le Havre tới các vùng biên giới tại Le Tréport. Một hệ
thống liên kết báo hiệu được chuẩn bị dọc theo phía Nam bờ biển Breton để nhanh
chóng chuyển tiếp tín hiệu những quan sát đáng nghi ngờ.
Nhưng ngay cả tại những vị trí cách xa bờ biển hay biên
giới một cách đáng kể cũng động viên các dân quân ra làm nhiệm vụ tuần tiễu,
canh gác cửa nẻo cầu cống của thành phố. Các khẩu đại bác hoen rỉ cũng được kéo
đến các vị trí để phòng thủ các kho vũ khí đạn dược và những két an toàn lưu trữ
quỹ công của thành phố. Hàng rào kẽm gai được dựng lên tại các vị trí trọng yếu
như hội trường thành phố, toà án, văn phòng các công sở của tỉnh và quận lỵ để
bảo vệ chống lại những đe doạ nào đó mà mọi người ai cũng lo sợ nhưng không ai
biết là gì.
Tình trạng đặc biệt căng thẳng tại khu vực Đông Bắc
nước Pháp. Đây là vùng mà vua Louis XVI đã đi qua trong cuộc trốn chạy bất thành
và chẳng cần thông minh lắm để kết luận rằng nhà vua đã cố vượt thoát tới biên
giới nước Áo. Kể từ khi viên tướng Bouillé và nguyên đoàn tuỳ tùng của ông ta đào
ngũ sang phía kẻ thù, lực lượng võ trang trong vùng đã không có người lãnh đạo
và giới chức thẩm quyền dân sự đã phải can thiệp vào và cố ứng phó tối đa theo
khả năng của họ. Dọc theo biên giới từ Metz tới Givet và Rocroi, từng đoàn người
dân tình nguyện và các quân nhân yêu nước đổ xô tới sửa sang phòng thủ các đồn
lũy biên giới đã bị bỏ hoang hư hỏng kể từ sau cuộc chiến 30 năm trước. Tại thành
phố Sedan, ban quản trị thành phố còn tổ chức một buổi lễ đặc biệt tận hiến tất
cả cho việc bảo vệ quê hương, một buổi lễ trùng hợp với lễ mừng Thánh Thể. Sau
buổi lễ, khoảng 3000 công dân có quân lính bộ binh đóng trại gần đó tham gia đã
khởi sự sửa chữa lại các bức tường thành và chiến hào phòng thủ của thị trấn.
Nhưng cho dù các công dân có thể giúp đỡ tái gầy dựng
phòng thủ, họ cũng không thể làm gì với vấn đề vũ khí đạn dược. Hầu như khắp mọi
nơi, các làng mạc phố thị đều nhận ra rằng kho vũ khí của họ quá thô sơ đến thảm
hại. Viên tướng Bouillé đã lén lút tháo gỡ quân dụng vũ khí khỏi những cứ điểm
trọng yếu tại Lorraine để tập trung hết vào Montmédy cho việc bảo vệ nhà vua.
Khi ban lãnh đạo địa phương khám phá ra điều này, nhiều người giả thiết rằng đó
là một phần trong âm mưu làm yếu đi sự phòng thủ với dự đoán một cuộc xâm lăng.
Khắp nơi thuộc vùng Đông Bắc, sau sự kiện Varennes từng ngày từng giờ, người dân
địa phương bắt đầu quan tâm đến sự xuất hiện của quân thù. Cũng không có gì lạ
nếu có người đã bắt đầu nhìn thấy chúng.
Nguồn gốc của sự hoảng hốt về một cuộc xâm lăng quét
qua vùng Đông Bắc nước Pháp có thể nhận diện một cách chính xác. Vào sáng sớm hôm
22 tháng Sáu, tướng Bouillé vẫn hy vọng có thể giải cứu được nhà vua nên đã ra lệnh cho một trung đoàn bộ binh Thụy Sĩ được Pháp
trả lương tiến về phía Tây từ thị trấn Metz đi tới sông Meuse, nơi chỉ cách
Varennes 10 dặm. Thực ra, khi trung đoàn này tới gần điểm đến đêm hôm đó, hầu hết
đám lính đã nổi loạn và từ chối đi tới. Họ tuyên bố là không được thuê mướn để
chống lại người dân nước Pháp. Các sĩ quan bèn bỏ trốn và đám quân còn lại rút
lui về Verdun. Nhưng sự việc xảy ra trong giây phút cực kỳ căng thẳng, việc hành
quân vượt qua biên giới của hàng mấy trăm binh lính võ trang lại nói tiếng Đức
lạ lùng này đã làm dấy lên sự hỗn loạn trong dân chúng địa phương.
Vào xế chiều ngày 22 tháng Sáu, giới chức thẩm quyền
tại Verdun đã gửi thông điệp đến những làng mạc chung quanh rằng có một đạo quân
đang di chuyển đến Varennes và rằng tất cả các vệ binh có mặt phải đi ngay tới
Meuse và phá hủy những cây cầu nếu thấy cần thiết để ngăn cuộc tấn công lại. Không
lâu sau đó, các nhà lãnh đạo Varennes bị ảnh hưởng vì sự hoảng hốt đã ban hành
một lời kêu gọi tiếp cứu khẩn cấp. Chỉ trong vài giờ, hệ thống thông tin liên lạc
đã từng lan toả tin nhà vua bị bắt giữ lại
được xử dụng để loan báo tin quân thù đang tiến tới. Trong 2 đêm liền, vệ binh nguyên
cả khu vực đã được huy động để đến tiếp cứu Varennes.
Bao giờ cũng thế, khi chuyển tiếp các lời kêu gọi tiếp
ứng, các làng xã phố thị luôn luôn phóng đại hay thêm bớt vào cái thông điệp gốc
ban đầu. Trong một bầu không khí lo lắng và căng thẳng, có những sự hiểu lầm không
thể tránh khỏi và có những liên lạc sai lầm. Thế nhưng đó cũng là điều tự nhiên
cho các viên chức hoảng sợ phóng đại một chút để chắc chắn là tình thế xem ra đã
đủ nguy kịch để dấy thêm những nơi khác cho sự tiếp ứng và cũng để chứng thực
cho sự hoảng sợ của riêng họ. Vì vậy, khi người dân tại Clermont chuyển đi lời
kêu gọi tiếp ứng của Varennes để bay tới
phụ giúp anh em một tay, họ đã làm lớn câu chuyện lên cách nào đó, với sự
tuyên bố rằng cuộc chiến đã đang xảy ra giữa người dân yêu nước và quân thù. Làng
mạc kế tiếp lại tô điểm thêm cho câu chuyện đi xa hơn, khẳng định rằng chiến trận
vô cùng ác liệt và rằng đã có nhiều người dân Pháp bị giết. Vào sáng hôm sau,
khi tin tức tiến tới phía cực Nam của tỉnh
Meuse, danh từ “quân thù” đã có một ý nghĩa thay đổi một cách tinh tế: sự đe doạ
không còn từ trung đoàn lính đánh thuê Thụy Sĩ được Pháp trả lương nữa, mà tự nó
đã trở thành danh từ “đế quốc”, một đoàn quân nước Áo giờ đang nhanh chóng tiến
tới khỏi Meuse.
Cùng lúc đó, tin tức đã đi về phía Tây băng qua cánh
rừng Argonne để tới Sainte-Menehould. Thị trấn vừa mới hồi phục sau một đêm bi
thảm và kiệt sức. Sự đối đầu với đám kỵ binh người Đức của Damas, sự xuất hiện
bất ngờ của hoàng gia và sự tàn phá gây ra bởi đám kỵ binh của công tước
Choiseul ở phía Bắc thị trấn đã làm cư dân gần như hoảng hốt. Lúc này họ lại
nghe, hoặc tưởng tượng là đã nghe thấy, rằng bọn lính Áo đã chiếm được và đã tàn
phá Varennes và giờ đang tiến thẳng về đây, tai hoạ có lẽ sẽ đến với người dân
Sainte-Menehould, vì có lẽ bọn chúng sẽ trừng phạt họ như đã trừng phạt
Varennes vì đã góp phần vào việc bắt giữ nhà vua. Họ gửi đi một thông điệp kêu
cứu: “Bọn lính đế quốc đã cướp phá Varennes. Vì thế nhân danh Tổ Quốc, chúng tôi
khẩn nài hãy đến hỗ trợ chúng tôi. Cấp báo! Chúng tôi đang rất thiếu thốn vũ khí
đạn dược và nhất là nhân lực.”
Sang ngày 23 tháng Sáu, tin đồn về xâm lăng đã tạo nên
một làn sóng hoảng sợ không khác chi cuộc Đại Kinh Hãi năm 1789. Khoảng 9 giờ sáng
tin tức đã lan đến Châlons-sur-Marne, nơi hoàng gia đã ở lại đêm trên hành trình
trở lại Paris. Tin đồn lan nhanh qua thị trấn rằng quân Áo đã tới ngay bên ngoài
cổng thành. Chẳng bao lâu, rối loạn xảy ra khi người người hốt hoảng tìm kiếm vũ
khí bảo vệ phòng thân. Các cửa nẻo của thị sảnh bị phá sập. Viên thị trưởng bị đám
đông giận dữ vây quanh ép buộc ông phải mở kho quân trang vũ khí trước khi ông
nhảy từ một cửa sổ trên lầu xuống thoát ra ngoài. Vừa sợ hãi vì bọn lính Áo tưởng
tượng, vừa vì người dân trong thị trấn la ó đòi có hành động, các viên chức đã
huy động vệ binh trong cả tỉnh và hối thúc mọi người dân đến hỗ trợ: “ Hãy can đảm
lên! Hãy tự chứng minh sự tự do của chúng ta có giá như thế nào bằng cách liều
mình bảo vệ nó.”
Lúc này đối với nhiều người, dường như rõ ràng bọn lính
Áo đã xâm lược Pháp để cướp lại nhà vua. Và từ quan điểm này, sự hốt hoảng của
họ theo sát diễn tiến hành trình trở lại Paris của nhà vua. Vệ binh, đôi khi có
cả phụ nữ và trẻ em đi theo đã có mặt khắp nơi trên đường, đi tới hỗ trợ
Varennes, Clermont hay Châlons, hay quay về nhà khi họ khám phá ra rằng kẻ thù đã
“rút lui”. Hàng ngàn người khác lại vội vã tham gia vào việc hộ tống nhà vua, lúc
này lại trở thành việc bảo vệ ông khỏi tay bọn Áo.Thời tiết trở nên khô nóng. Số
lượng đông đảo người bước đi trên đường đã gây nên những đám bụi mù giữa vùng đất
trắng xoá của vùng Champagne phía Bắc. Bụi đường, sự mơ hồ, tiếng trống và những
bước chân nặng nhọc trong đêm hay giữa buổi choạng vạng tối có thể dễ dàng khẳng
định cho nỗi sợ hãi nhất của người ta rằng đoàn quân xâm lược đangở phía bên
kia đồi hay tại khu rừng bên kia sông.
Trong vòng 2 ngày, tin tức khủng khiếp đã toả ra khắp
vùng Champagne và lan tới một phần của các tỉnh Lorraine, Picardy và
Idle-de-France. Tại Lorraine, Thị trấn thành lũy Netz đã huy động vệ binh và phái
họ đến Verdun lần thứ hai chỉ trong 2 ngày. Thionville ở phía Bắc của Metz cũng
nghe được tin đồn xâm lược, nhưng giờ có sự lầm lẫn về chiều hướng của sự tấn công. Cư dân thị trấn đã
bắt đầu phá hủy các cây cầu băng qua sông Moselle với dự đoán một cuộc xâm lăng
của quân Đức ở xa xa về phía Đông. Cùng lúc đó, lan toả từ làng này sang làng
khác với cường độ tăng lên khắp nơi theo tiếng chuông báo động của nhà thờ, sự
hốt hoảng bùng lên tới vùng Tây Bắc tới tận Charleville và vùng tiền tuyến phía
Bắc. Khi người dân trong thành phố Reims nghe thấy tin đồn, họ bèn chuyển tiếp
qua phía Tây tỉnh Soissons và Laon. Vào buổi sáng ngày 24 tháng Sáu, nỗi lo sợ đã
quét qua khỏi con sông Oise tới tỉnh Picarfy. Lúc này sự đe dọa lại thêm phần
thêu dệt anh hùng tính. Chuyện được kể là một đoàn quân Áo từ 40,000 đến
50,000, có kẻ nói 60,000 đã chận được nhà vua lại. Bọn chúng đã phá hủy
Varennes và Sainte-Menehould, đã di chuyển qua khỏi Châlons và tàn phá bất cứ gì
chúng gặp trên đường, lửa khói và giết chóc khắp nơi. Chiều hôm đó, một ngày
trước khi vua về tới, tin đồn về cuộc xâm lăng từ phía Đông đã kích động một
phong trào bạo loạn trong đám thường dân ngay tại Paris.
Những ngày kế tiếp, 4 khu vực khác của nước Pháp cũng
bị xáo trộn với sự hoảng hốt về xâm lược tương tự. Một cuộc chạm súng giữa binh lính và đám buôn
lậu ở vùng núi rừng Pyrenees phía Tây tạo ra tin đồn rằng quân Tây Ban Nha đã
vượt biên giới và đang tiến vào 3 vùng thung lũng ở Tây Nam nước Pháp. Sau đó là
hàng chục cộng đồng từ Pau đến Bayonne và xa tới tận phía Bắc là Bordeaux cũng cấp tốc đưa vệ binh tới đối đầu
với kẻ thù. Dọc theo vùng giữa bờ biển Đại
Tây Dương, sự xuất hiện của nhiều cánh buồm không rõ lai lịch bên ngoài
Saint-Hilaire-de-Riez tức thì tạo nên một báo cáo về sự xâm lược cùa Anh Quốc
lan nhanh chóng khắp vùng Poitou. Tại Brittany, một cuộc chiến nho nhỏ gần
Saint-Malo xảy ra giữa vệ binh và đám quý tộc lưu vong đang đi thuyền tới
Jersey cũng gây nên một tin đồn khác. Chuyện kể rằng có 6000 quân lính đã đổ bộ
từ 40 chuến thuyền của Anh và đang di chuyển dọc theo bờ biển về phía Tây. Vệ
binh được huy động từ rất xa như Rennes và Brest để nhanh chóng tập họp lại chống
bọn xâm lược cứu quê hương.
Và rồi thật mau chóng, cũng gần như lúc bắt đầu, các
hoảng hốt đủ loại trên biến mất. Các thông điệp khẩn cấp từ những nguồn cung cấp
tin xâm lược tự xác định là chẳng có quân ngoại bang nào xuất hiện, hay nếu đã
xuất hiện thì bọn chúng đã rút lui. Hội
Đồng Cách Mạng Quốc Gia lấy cơ hội để bác bỏ các nguồn tin này là không chứng cớ.
Tuy vậy, tin đồn cũng gặp phải sự châm
biếm của một số các ban quản trị đia phương. Đáng kể là tất cả những nỗi lo sợ
xâm lược đã khởi sự từ các vùng không hay ít bị tác động bởi biến cố “Đại Khủng
Khiếp” năm 1789. Nhưng một khi tin đồn lan tới những vùng miền đã trải nghiệm về
bạo lực và tình trạng vô chính quyền của cơn hoảng hốt trước đó, không dễ gì
người dân họ tin. Thí dụ tại Château-Thierry, một thị trấn đã từng bị rung chuyển
trong biến cố “Đại Khủng Khiếp”, các lãnh đạo quận lỵ kết luận rằng cuộc xâm lược
được tuyên bố trên thật là khó tin đến nỗi câu chuyện giống như một trò nguỵ tạo
của kẻ thù, một âm mưu nhằm chia rẽ quốc gia. Họ không những từ chối chuyển tin
tức đi mà còn cho người đi điều tra về nguồn gốc của trò nguỵ tạo từ đâu. Đặc
biệt trong số những trí thức ưu tú, ký ức về bạo loạn và tình trạng vô chính phủ
của lần gặp gỡ trước đó với những kẻ thù tưởng tượng dường như đã truyền bá cho
họ cái tư tưởng đi ngược lại với những hốt hoảng theo sau.
Kẻ nội thù
Khắp nơi trên nước
Pháp, ngay tại những vùng không có sự hoảng hốt, sự bất ngờ biến mất của nhà
vua cũng gây nên sự sợ hãi một cuộc xâm lăng có thể xảy ra. Nhưng cuộc khủng hoảng
cũng dấy lên nỗi lo sợ về kẻ nội thù, những âm mưu bí mật nhằm chống lại Cách Mạng.
Một quan điểm về âm mưu của thế giới thật khó đồng nhất trong thời kỳ cách mạng.
Trong nhiều thế kỷ, người dân đổ cho sự thiếu hụt ngũ cốc là do những hoạt động
giấu giếm của đủ loại các nhóm vô lại nhằm
kiếm lợi nhuận hay để trả thù cho những sai trái mà họ đã phải gánh chịu trước đó.
Mặc dù sự ra đời của nhiều phương thức phân tích mới đặt căn bản trên sự giải
thích khoa học một cách hợp lý, thí dụ như nối kết nạn đói với những điều kiện
khí tượng tự nhiên hay với phương tiện vận tải thô sơ nghèo nàn, đại đa số người
dân tiếp tục liên hệ tất cả những sai trái trên thế giới tới những hành động cố
ý của những cá nhân có những kế hoạch mưu đồ. Ngay cả với những người văn minh
hơn trong các xã hội tỉnh thành, một giả thiết như vậy dường như không thể xảy
ra trong bối cảnh Cách Mạng bởi bất cứ phương tiện nào. Các nhà ái quốc chỉ biết
rất rõ rằng những thay đổi có được từ năm
1789 đã kích động lên sự đối nghịch đắng cay của 2 nhóm đặc biệt: giới quý tộc
và giới giáo sĩ.
Mặc dù một nhóm
nhỏ quý tộc tự do đã sớm bước theo con đường Cách Mạng, tuyệt đại đa số chẳng hài
lòng với những biến cố. Bực bội với việc HĐCMQG tấn công vào những đặc quyền
phong kiến mà họ từng được hưởng, họ càng giận dữ hơn với sự đàn áp vào cái tước
vị “quý tộc” trong tháng Sáu 1790. Trong cái quan điểm kỳ thị giai cấp của xã hội,
cái ý tưởng mà người ta làm luật để loại bỏ sự hiện hữu của giới quý tộc có vẻ
vô lý giống như – theo ngôn ngữ của một nam tước – “người ta không thể thay đổi
một cây sồi thành một cây thông chỉ bằng một nghị quyết đơn giản”. Để chắc chắn,
sau mùa hè 1789, hầu hết giới quý tộc tỉnh thành ra vẻ thận trọng, giữ gìn lời ăn
tiếng nói và rút lui vào trong lâu đài của họ nơi họ hy vọng tránh qua cơn bão.
Nhưng có một số không thể kềm hãm môi miệng; họ nhạo báng những người yêu nước địa phương, từ chối công nhận sự hiện hữu của HĐCMQG và các quyền
của con người (quyền chỉ dành cho đàn ông trưởng thành) và họ tuyên đoán rằng
những thay đổi trước đây sẽ không tồn tại lâu. Khi họ tập trung với nhau trong
những dịp xã hội hay làm việc thiện nguyện, họ lại càng ít kiềm chế hơn về những
nhận xét thô bỉ hạ thấp cuộc Cách Mạng và
những nhà lãnh đạo Cách Mạng cùng với những lời lẽ tiên đoán tai hoạ cho cả
hai. Những lời lẽ tiên đoán đó nảy sinh từ sự bất lực và đắng cay thường bị
nghe lén bởi hàng xóm và những đầy tớ của họ. Khi được thêu dệt vẽ vời cho hợp
lý và truyền tới tai cộng đồng, những chuyện trò như vậy có thể biến thành chứng
cớ của các âm mưu.
Sự diễn dịch về âm
mưu như vậy càng đáng tin hơn khi mọi người biết về những đám quân đi lưu vong
tập trung bên kia bờ sông Rhine, về bọn
phản cách mạng đã trốn khỏi nước Pháp và quyết tâm chấm dứt Cách Mạng. Với ưu
thế biết hết chuyện đã xảy ra, thì rõ ràng là những đám quân lưu vong đó bao gồm
đa số là đám sĩ quan quý tộc và rất ít đám binh lính thường dân, chứng tỏ rất ít nguy hại cho đất nước. Nhưng đối với
những nhà ái quốc vào mùa xuân 1791, cái đe doạ thực sự thì khó khăn đánh giá hơn
nhiều. Thật khó có thể tin rằng con người
từng luôn luôn nắm nhiều quyền lực trong xã hội
trên tay giờ thình lình dừng lại
mọi chuyện có ảnh hưởng tới họ. Nhiều người tin rằng đám lãnh đạo lưu vong, công
tước d’Artois và ông hoàng de Condé đang bí mật hỗ trợ đám quý tộc tại tỉnh lỵ.
Trong những tháng trước sự kiện Varennes, một người dân ở Picardy đã cho HĐCMQG
biết về những nhóm quý tộc tập trung ở một lâu đài gần đó và ông ta tố cáo rằng
có những âm mưu đang hình thành trong số những người có ý định tàn ác chuẩn bị làm cuộc phản cách mạng.
Tại thành phố Lorraine phía Nam, có những báo cáo về một nhóm khác được biết như
là bọn mưu đồ phản cách mạng, di chuyển từ lâu đài này qua lâu đài khác để tổ
chức việc quy tụ giới quý tộc địa phương và xóa bỏ Hiến Pháp. Một bức thư đến từ
Province loan báo có chứng cớ của một mạng lưới rộng lớn được tổ chức tại mỗi
khu vực của đất nước do đám quý tộc lưu vong có tên là “hiệp hội quý tộc hào phóng”
thề hứa tuân lệnh công tước d’Artois. Những âm mưu đó có thực sự hiện hữu không
thật khó để biết rõ. Nhưng những bức thư như vậy tiết lộ một xác quyết rộng rãi
vào mùa xuân 1791 rằng toàn bộ giới quý tộc vùng miền đều có tham dự vào các hoạt
động phản cách mạng.
Những nỗi lo sợ
như thế càng tăng cường độ với sự khủng hoảng về tôn giáo bắt đầu xen lẫn vào
nước Pháp kể từ đầu năm 1791. Vào mùa xuân đó, non nửa hàng giáo sĩ ở miền quê
từ chối tuyên thệ trung thành với những văn bản được chỉ định bởi HĐCMQG, cùng
những mệnh lệnh được ban hành thay thế những linh mục “ngoan cố.” Những khu vực thật ương ngạnh như ở miền Tây nước Pháp hay các vùng ngoại
vi ở phía Đông và phía Nam, nhiều nhà lãnh đạo cảm thấy như bị đe doạ và bị bao
vây. Bất cứ nơi nào có những nhóm từ chối tuyên thệ đông đảo, các ban quản trị
đều cố tìm ra những âm mưu bí mật thông đồng, có lẽ được khởi đầu bởi đám Giám
mục ngoan cố, lúc này đang sống ở ngoại quốc và có liên hệ chặt chẽ với đám quý
tộc lưu vong. Ngay từ tháng Năm, các chủ sự phòng tại Laon ở Đông Bắc Paris đã
có vẻ bị ám ảnh với tình trạng nguy ngập do sự khủng hoảng về chuyện tuyên thệ
gây nên trong vùng. Trongt thâm tâm họ không còn nghi ngờ gì về chuyện giáo sĩ
từ chối tuyên thệ có liên quan đến những đầu não có âm mưu nổi loạn cả trong và
ngoài nước.
Vì vậy, khi tin
tức nhà vua đào tẩu loan ra, hầu hết các nhà ái quốc trong cả nước đã đặt giả thiết ngay về sự hiện
hữu của những âm mưu nội tại quyết tâm tiêu diệt Cách Mạng và rõ ràng có dính dáng
tới bọn ngoại thù. Ban lãnh đạo của một thị xã viết: “Sự biến mất của hoàng gia
đã kích động một phong trào phẫn nộ chống lại bọn thù nghịch với lợi ích chung.
Những tuyên bố táo bạo của một số người, sự di cư ra nước ngoài của một số khác,
sự từ chối tuyên thệ của một số giáo sĩ, tất cả đã chỉ rõ về một âm mưu gây tội
ác. Vấn đề thực sự của các nhà quản trị, một vấn đề mà nó làm bận tâm các nhà Cách
Mạng trong nhiều năm tới, là họ nên đáp trả những đe doạ đó như thế nào. Và ở đây,
họ bị dầy xé sâu xa. Một mặt, hầu hết các viên chức được uỷ thác giữ khái niệm công lý và luật pháp bình đẳng
cho đám quý tộc và giáo sĩ như tất cả những người khác, Sau hết, những lý tưởng
như vậy là từng phần và nguyên vẹn bản tuyên bố về nhân quyền và công dân quyền.
Như chính họ là những người có tài sản, các viên chức nhớ lại rất rõ ràng những
hỗn loạn và vô trật tự vào cái mùa hè đầu tiên của cuộc Cách Mạng, và họ lo lắng
rằng những kẻ bị tố cáo tình nghi cần được xét xử tại toà chứ không phải từ đám
đông. Những chỉ đạo của họ trong tháng Sáu và tháng Bẩy gồm đầu những tu chính án
về việc cần thiết duy trì pháp luật. Thí dụ như ở Auch, các viên chức đã thúc
giục mọi người tỏ ra hoàn toàn tuân theo pháp luật: “Hỡi các công dân! Đây là lúc
chúng ta phải quyết định chúng ta có thực sự tự do hay không hay vẫn bị trói buộc
vào những xiềng xích mới của tình trạng vô chính phủ?”
Mặt khác, những
giá trị về công lý và pháp luật bình đẳng phụ thuộc vào sự hiện hữu liên tục của
Hiến Pháp mới, và các nhà cai trị để ý tới sự đe doạ gây ra cho sự sống còn của Cách mạng bởi sự trốn chạy
của nhà vua và những âm mưu nhận thấy được. Nên có hay không những tình trạng
khẩn cấp mà trong đó sự phòng thủ đất nước chứng thực cho những hành động có tính
cách trấn áp mà bình thường là bất hợp pháp không? Như khi Charles Lameth tuyên
bố: “Thà rằng thi hành một sự bất công tạm thời hơn là nhìn thấy quốc gia mất đi.”
Trong bối cảnh này, những chỉ thị của HĐCMQG về việc làm mọi bước cần thiết để
duy trì pháp luật và phòng ngự đất nước đặc biệt trở nên mơ hồ và co giãn. Những
chỉ thị đó có thể được dễ dàng diễn dịch như một tấm màn che thực sự cho các hành
động áp chế.
Hơn nữa, các viên
chức cấp địa phương đã không hành động một cách trống rỗng. Luôn luôn họ tính đến
ý kiến của người dân dưới tay họ quản trị và những nghi ngờ cũng như nỗi khát
khao xử dụng bạo lực của người dân thì ai cũng hiểu. Đặc biệt có 2 nhóm người đã
thúc đẩy các cấp lãnh đạo hành xử những
biện pháp áp chế nhiều hơn vào những tháng ngày sau 21 tháng Sáu. Đó là đám đông
sống tại đô thị và các vệ binh. Trong rất nhiều cộng đồng, tin nhà vua chạy trốn
và bị bắt lại tại Varennes khởi đầu cho những bùng nổ tự phát các vụ bạo động
quần chúng chống lại các nhà quý tộc và giáo sĩ địa phương. Đôi khi giới chức
thẩm quyền hảnh động ngay để chấn chỉnh lại những xúc cảm như vậy. Những người
danh tiếng tại Cahors đã có óc sáng tạo khá bất thường trong khía cạnh này khi
tổ chức một lễ hội “toàn quốc đặc biệt, có lẽ là để đề xướng những kế hoạch đã đang
tiến hành cho ngày lễ 14 tháng Bẩy sắp tới. Có cuộc diễn hành của vệ binh, có
ban nhạc, những bài diễn văn yêu nước của các giáo sĩ (công nhận) Hiến Pháp, có
sự trình bày lại bài ca “ça ira!” và một
lời thề nghiêm trọng được tuyên bố bởi cả
nam nữ trung thành với tổ quốc và pháp luật. Tại Strasbourg, một màn trình diễn
nhạo báng được tổ chức với các hình nộm
bằng rơm Bouillé và Klinglin và Heyman, đám tùỷ tùng của viên tướng được kéo đi
phô diễn trên đường trên một chiếc xe kéo và sau đó được đối đi ngay tại công
viên thành phố giữa tiếng reo hò của dân chúng.
Nhưng đối với
nhiều viên chức, sự bằng lòng dưới sức ép của đám đông dường như tốt hơn sự can
đảm. Các nhà cai trị tại Brittany đặc biệt nói rõ ràng khi diễn tả tình trạng
khó xử này của họ. Vào cuối tháng Sáu họ viết: “Sự lo âu và phẫn nộ của dân chúng
đã lên đến cực điểm. Vào giữa lúc vô cùng kích động này, thật không thể nào nói
lý lẽ mà được nghe. Chúng tôi phải xoa dịu và tuỳ theo những nhiệt tâm như thế
nếu muốn ngăn họ đi quá lằn ranh kiểm soát
và vẫn duy trì được nể trọng trong ý kiến công chúng, nếu không thì không thể nào
quản trị.
Có lẽ không có một
vấn đề đơn lẻ nào dấy lên mối lo ngại lớn lao đối với người dân thường hơn là sự
kiểm soát các đồn lũy của thành phố. Chìa
khoá của những cứ điểm này ở trong tay các viên chỉ huy quân sự địa phương, luôn
luôn vẫn là các nhà quý tộc. Sự phản bội của tướng Bouillé và toàn ban tham mưu
của ông đã làm tăng cường độ nghi ngờ chống lại tất cả bọn họ. Tại Strasbourg, Verdun, Dunjerque và La
Rochelle, mỗi thành phố có đồn lũy trên dưới dọc theo bờ biển và các vùng biên
giới, sự đòi hỏi của dân chúng buộc các nhà quản trị dân sự phải tiếp quản kiểm
tra các đồn lũy địa phương. Như các trưởng lão tại Cambrai giải thích: “Dân chúng
coi đám giáo sĩ và quý tộc chính là những tác giả của vụ việc bắt cóc nhà vua.”
Vì vậy, các viên chức cảm thấy buộc lòng phải nắm lấy việc kiểm soát quốc phòng
của thành phố, bởi vì trong tình trạng hiện tại, thật sự vô cùng nguy hiểm khi
làm trái ý công chúng, một yếu tố thiết yếu của lòng ái quốc.”
Áp lực đòi có đủ
loại hình thức các hành động siêu luật pháp cũng đến từ hàng ngũ vệ binh. Như chúng ta đã thấy, khắp cả nước , sự động
viên các dân quân địa phương đã là biện pháp đầu tiên được xử dụng ngay khi có
tin nhà vua chạy trốn. Hội Đồng Quốc Gia
đã ra quyết nghị cho các danh sách tuyển mộ các vệ binh được sẵn sang ra chiến
trận trong trường hợp đất nước bị xâm lăng,
và hầu như khắp nơi, người ta đổ xô đi đăng
ký với một lòng nhiệt thành lạ thường. Tại Lyon, chỉ riêng trong thị xã có hơn 800 người mới tuyển mộ được chào mừng. Tại La
Rochelle, những buổi lội họp tự phát của người dân trên đường phố hay trong khu
vực đã quyết định thành lập 6 đại đội mới. Ngay cả một làng nhỏ như Cuxac, các
vệ binh nông dân nghe nói cũng bùng cháy khát vọng lên đường cứu quốc.
Hầu hết các vệ
binh đều mạnh mẽ thực thi các mục tiêu của Cách Mạng. Họ thề thốt bảo vệ Hiến Pháp chống lại mọi kẻ
thù, và cái kinh nghiệm Varennes càng củng cố thêm sự nghi ngờ của họ đối với
giới quý tộc và giáo sĩ ngoan cố. Nhiều đơn vị nhanh chóng trục xuất tất cả các
quý tộc trong hàng ngũ, bởi vì “sự thận trọng và an toàn của đất nước ngăn cản
chúng tôi giao phó quân lính cho những cá nhân mà lợi ích của chúng đối nghịch
với lợi ích Cách Mạng.” Hơn nữa, nếu họ thi hành nhiệm vụ của họ hoàn hảo và đạt
được vị thế mà họ thấy mình xứng đáng, các tân vệ binh này rõ ràng cần được
trang bị vũ khí đạn dược. Việc săn lùng vũ khí đạn dược cho những dân quân mới
có điểm thuận lợi là không những giải trừ vũ khí của bọn phản Cách Mạng mà còn
có vũ khí trao vào tay những người yêu nước. Hầu như khắp nơi trên toàn quốc
sau ngày 21 tháng Sáu, vệ binh đã tập họp thành những toán quân đáng sợ đi trấn
áp tại mọi tỉnh thành.
Giữa luật pháp và
phương tiện
Đáp lại sức ép của
quần chúng và thích nghi với sự rộng rãi
của Hội Đồng Quốc Gia cho phép làm mọi việc cần thiết để bảo vệ đất nước, các hội
đồng quản trị trong cả nước xử dụng một loạt các biện pháp chống lại “bọn nội
thù”. Trong số có nhiều biện pháp vừa bất hợp pháp vừa vi phạm bản Tuyên Ngôn về
Nhân Quyền. Nhưng cuộc khủng hoảng dường
như chưa từng xảy ra và sự nguy hiểm về các âm mưu quá hiển nhiên đến nỗi các
viên chức đã quyết định làm mọi thứ cần thiết và thích hợp để ngăn chận những mưu
đồ bất chánh của kẻ thù.
Vì vậy, hầu hết
giới chức địa phương các nơi bắt đầu mở lại để đọc kiểm tra hết những lá thư được
gửi qua bưu điện, mặc cho những nghị quyết nhắc nhở về tính bất khả xâm phạm của
thư từ. Hội đồng của một thị trấn nhỏ tại Lorraine còn cẩn thận giải thích lý
do: “Kẻ thù cả nội lẫn ngoại của chúng ta sẽ không bỏ qua bất cứ gì có thể làm
để đạt được những mưu đồ ghê gớm của chúng chống lại đất nước. Vì thế, không có
sự tiết lộ bất cứ bí mật gia đình nào, có lẽ ta phải thận trọng xem xét kỹ càng
trong bưu điện về bất cứ tương quan nào đáng nghi ngờ.” Trong thực tế, việc định
nghĩa về mối tương quan đáng nghi ngờ rất đa dạng từ thị trấn này qua thị trấn
khác. Một số viên chức kiểm tra mọi thư từ đến và đi từ ngoại quốc. Nơi khác lại
chú trọng đến thư từ gửi đi từ những giám mục “ngoan cố” hay gửi đến từ đám quý
tộc hay giáo sĩ bị nghi ngờ. Hầu hết các lá thư bị kiểm soát chẳng tiết lộ được
gì mặc dù những nỗ llực tối đa của các nhà ái quốc để tìm ra các âm mưu trong
những lời lẽ trò chuyện gia đình vớ vẩn. Những số lượng lớn chất đống trong kho
lưu trữ của Ủy Ban Nghiên cứu của Hội Đồng, chẳng bao giờ được giao trả, và cũng
mang lại rất ít ánh sáng cho các đại biểu năm 1791 cũng như cho các sử gia ngày
nay. Nhưng đôi khi, những lá thư đã mở ra lại có những hệ quả lớn lao cho cá nhân.
Một đoạn văn ngắn dường như vô hại từ một quý tộc lưu vong gửi đến đại lý công
việc làm ăn của họ ở gần Orleans, một ông Petit nào đó, đã bị can thiệp và tiết
lộ ra công chúng, dẫn tới việc người đại lý xém bị giết hại và ông ta bị giam
giữ lâu dài trong nhà giam thị trấn. Ông Petit
hãi sợ này viết: “Từng giây từng phút, tôi dường như nghe đám đông la hét đòi xử lý nạn nhân.”
Nhiều chức sắc cũng
chấp nhận việc bắt giữ một cách sai luật pháp các du khách. Trong việc diễn giải
rộng rãi luật cấm đoán cá nhân vượt biên giới của HĐCMQG, các hội đồng quản trị
bắt đầu ngăn chận những du khách vô danh bất cứ họ ở nơi đâu, đặc biệt với những người quý tộc
hay người ăn mặc lạ thường hoặc nói năng lạ lùng hay cả khi tỏ ra bối rối. Rõ ràng
không có lấy một phút rảnh rang đi đâu cả, HĐCMQG cứ tràn ngập thư từ khẩn cầu
từ những người không may mắn tự nhiên bị giam giữ trong cuộc khủng hoảng, đôi
khi kéo dài nhiều tuần lễ khi họ bị từ chối quyền ‘habeas corpus’ được Hiến Pháp
bảo đảm (quyền tạm giam tối đa được phép). Tại Cahors, vệ binh bắt giữ 2 thương
gia người Bỉ có giọng nói mang âm hưởng
ngoại quốc trên đường đến nước Ý. Ban quản trị thị trấn biện hộ cho sự bắt giữ
của họ vì mối lo ngại một cuộc xâm lăng của đoàn quân nước ngoài sắp xảy ra. Để
bảo vệ Hiến Pháp không bị hủy hoại, họ cần có biện pháp đề phòng cẩn trọng.
Trong vụ này, 2 thương gia Bỉ bị tạm giam đến tận giữa tháng Tám mới thả và họ
chỉ còn biết than trách số phận xui xẻo của mình. Ở nơi khác, giới chức thẩm
quyền tạm thời bắt giữ một người thổi kèn clarinet thất cơ lỡ vận, một bác sĩ
thú y làm việc cho chuồng ngựa hoàng gia trên đường đến Brussels và một tay bá
tước đáng nghi đi lang thang qua phố và ai cũng tỏ vẻ nghi ngờ.
Tuy nhiên, các
người yêu nước tại tỉnh lỵ luôn luôn ít quan ngại người nước ngoài đi ngang qua hơn là đối với những
cư dân địa phương đã có những cử chỉ chứng tỏ sự đối nghịch đối với Cách Mạng. Khắp cả nước, các đội ngũ chức sắc và vệ binh
quốc gia đổ xô đi khám xét những lâu đài và các cơ sở tôn giáo của những giáo sĩ
từ chối tuyên thệ gần đó. Họ tìm kiếm các bằng chứng về những cuộc hội họp bí mật
phản Cách Mạng. Họ cũng sẵn cơ hội để săn lùng vũ khí đạn dược có thể sẽ được xử
dụng chống phá Cách Mạng, đồng thời chính họ cũng đang cần đến chúng.
Đây là lần đầu tại
các thị trấn vùng miền mà từ ngữ “tình nghi” được xử dụng rộng rãi trong ngữ vựng
hành pháp. Nhưng điều gì gây nên sự bất tín nhiệm, điều gì chứng tỏ sự “có ý định
đáng nghi ngờ”, như các viên chức tại Montpellier xử dụng, thường rất mơ hồ. Trong
nhiều trường hợp, sự nghi ngờ dường như chỉ phát xuất từ lời phát biểu riêng biệt
nào đó của các cá nhân, hoặc là trong quá khứ hoặc ngay sau vụ Varennes, những
lời lẽ mà trong tư tưởng của hàng xóm của họ phân loại họ như những công dân có
những hành vi phản Cách Mạng nổi bật. Một phụ nữ tại Meaux đã bị giam giữ vì sự
bộc phát một hành vi quý tộc trong một bữa ăn tối với bạn bè nhiều tháng trước đó.
Một linh mục gần Verdun bị bắt vì đã diễn đạt trước công chúng rằng nếu nhà vua
đã thoát đi được có lẽ tai hoạ đã không xảy ra, những ngôn từ được trích dẫn ra
khỏi nguyên bối cảnh của nó, theo ý nghĩa “tình nghi” trong sự thẩm vấn. Hai giáo
sĩ “ngoan cố” xém bị đám đông phẫn nộ treo cổ tại Vendôme vì dám sỉ nhục một giáo
sĩ ủng hộ Cách Mạng. Tiếc là các viên chức hành pháp đã không thể cứu nổi một
tay quý tộc tại Brest từ việc công chúng trả thù vì sự nhạo báng của ông ta về
một buổi lễ Cách Mạng khi ông vẽ lên tường một quán rượu hình vẽ thô tục. Không lâu sau tin tức nhà vua biến mất
khỏi Paris, tay quý tộc đã bị cắt cổ, và đầu ông bị cắm trên một cái cọc đi bêu riếu trong thành phố.
Ở nơi khác, các
cá nhân bị coi là đáng nghi ngờ vì họ có những liên kết nổi bật với đám di dân,
hay chính họ tỏ ước muốn rời bỏ nước Pháp. Ở trên chúng ta đã thấy tình trạng phân
vân đáng buồn của ông Petit khi việc liên quan của ông với một di dân bị can
thiệp. Một anh bạn trẻ tên Boubert bị theo dõi và bắt giữ sau khi hỏi mượn tiền
một người thân để chi trả cho việc di cư của anh. Nhưng rõ ràng thường gặp hơn
là những sự lo sợ bởi những cuộc tập
trung gặp gỡ bí mật của các nhà quý tộc nổi danh và đám giáo sĩ tại các lâu đài
địa phương. Báo cáo về những buổi họp kín của quý tộc và bọn giáo sĩ ngoan cố tại
Saint-Denis ngay phía Bắc Paris hối thúc các giới chức quận lỵ đến lục soát nhà
một quý tộc ngay lúc 2 giờ sáng, Tay quý tộc tuyên bố rằng khách của ông chỉ đến
ăn mừng lễ Hiện Xuống, và quả thực, sự điều tra cho thấy chẳng có vũ khí hay khách
lạ bí mật nào. Một cuộc lục soát tương tự tại một lâu đài gần Chaumont-en-Vexin
nơi gia đình một quý tộc đang chơi đánh bài Whist rất ngạc nhiên, với kết quả tìm
thấy 9 cây súng săn loại cổ và một ngọn giáo vật kỷ niệm của trận chiến
Fontenoy. Tất cả đều bị tịch thu vào kho vũ khí của quốc gia.
Trong một số trường
hợp, những tấn công cá nhân các quý tộc dường như gây nên bởi những hận thù hiềm khích rất lâu trước Cách Mạng. Nhân dịp vụ
Varennes xảy đến, vệ binh từ nhiều làng
mạc ở gần Reims đã tụ tập tại lâu đài của hầu tước d’Ambly, một đại biểu của HĐCMQG.
Tìm thấy vài khẩu súng, họ ép buộc bà vợ của ông hầu tước cho họ tiền mua súng ống
và bỏ đi với sự kinh hoàng của đứa cháu trai, người mà họ coi như vật bảo chứng.
Trong trường hợp này, đám vệ binh dường như lựa chọn d’Ambly một phần vì nhà quý
tộc nổi danh như một thành phần phản kháng đối với HĐCMQG, phần khác cũng vì mối
hận thù về các đặc quyền phong kiến mà
chúng đã làm cho dân làng chống cự lại lãnh chúa đất của họ trong khoảng 25 năm.
Cuộc tấn công vào Guillet du Montet, lãnh chúa Poleymieux ở miền quê gần Lyon còn dữ dội hơn. Trước năm 1792, Guillet đã bị thù ghét vì những
cách đối xử tàn bạo của ông đối với nông dân và sự từ chối tham gia Cách Mạng.
Không lâu sau vụ Varennes, cả trăm cư dân đã kéo tới chiếm giữ kho vũ khí lớn mà ông tàng trữ trong lâu đài của ông. Khi
Guillet chống lại, một trận chiến xảy ra và chỉ kết thúc sau khi lâu đài bị xâm
chiếm và ông ta bị giết. Thân thể bị xé từng mảnh ném vào toà lâu đài đang bị đốt
cháy. Những biến cố tại Poleymieux được rộng rãi loan tải không lâu sau đó gây
kinh hoàng cho cả nước. Tuy vậy, những bạo động cực độ như vật khá hiếm hoi
trong cuộc khủng hoảng. Sau vụ việc nhà
vua chạy trốn, chỉ có 4 cá nhân bị sát hại, cả 4 là nhà quý tộc và có ít nhất 3
trong số họ đã bị thù ghét vì đủ thứ bất mãn có từ rất lâu.
Trong hầu hết, sự
việc trấn áp do các lãnh đạo địa phương và vệ binh thực thi thường đi theo quy
trình tuỳ từng trường hợp, nhắm vào các cá nhân bị tình nghi chuyên biệt. Nhưng
trong một số trường hợp, vì lo ngại có những âm mưu thực sự hay phải chìu theo áp
lực quần chúng, các giới chức thẩm quyền đã ra lệnh lục soát và bắt giữ không cần
xét xử cả một loạt thành phần xã hội nào đó. Ở đây, đối tượng bị tình nghi không
nổi lên từ một hành vi của một cá nhân đặc biệt nào được cho là vi phạm, nhưng chỉ
từ sự kiện là họ đã thuộc về một nhóm xã hội hay chính trị đặc biệt. Những lý lẽ
như vậy có lẽ rất rộng rãi trong đủ các thành phần của thường dân. Tại
Varennes, vào cao điểm của cơn hoảng loạn về hiểm hoạ xâm lược, một đám nông dân
và vệ binh đã bắt giữ một trong những viên sĩ quan chỉ huy kỵ binh, tuy người này
đã cố gắng cộng tác với các nhà ái quốc. “Hắn là một sĩ quan, một tay quý tộc.
Vậy hắn phải là một tên phản quốc!” Họ la hét với một lý luận sắc lạnh như băng,
sau đói giảm nhẹ tội lỗi xuống thành tội dám mặc quân phục sĩ quan hoàng gia.
Những hành động
của các công chức phân loại tình nghi kiểu
này còn nhiều ý nghĩa hơn. Những mục tiêu rõ ràng nhất của hình thức tố cáo
chung này là hàng giáo sĩ “bướng bỉnh” từ
chối tuyên thệ trung thành với Hiến Pháp. Trong những vùng miền phải đấu tranh
với số lượng lớn các giáo sĩ ngoan cố này, các nhà ái quốc địa phương thường vô
cùng mất kiên nhẫn với những nghị quyết của HĐCMQG về quyền tự do tôn giáo và sự
dung thứ cho đám “ngoan cố” nhưng không có ý gây rối này. “Nhưng khi từ chối không
tuyên thệ trung thành không phải là một sỉ nhục đối với Hiến Pháp và là một đe
doạ cho đất nước sao?” Các tay theo chủ
nghĩa tự do có thể thúc đẩy cho quyền tự do phát biểu, như cư dân của một thị
trấn nhỏ tranh cãi: “Nhưng laỵ Chúa, loại ý kiến nào là chủ nghĩa cuồng tín mà
nó chỉ mang đến viễn ảnh của giết chóc, làng mạc bị đốt cháy, đất nước bị tàn phá!”
Tại vài khu vực, sự đàn áp các giáo sĩ cố chấp quả thực là khốc liệt, không giống
như bất cứ gì được theo đuổi trước đó trong cuộc Cách Mạng. Ngay khi nghe được tin nhà vua trốn chạy, các
viên chức của thành phố Nantes đã ra lệnh
tức khắc trục xuất các giáo sĩ ngoan cố trong vùng và bắt giữ bất cứ vị
linh mục nào có hoạt động phản Cách Mạng. Vài lãnh đạo các quận lỵ tại Normandy
và Brittany cũng làm tương tự, họ biện luận rằng bọn giáo sĩ đó đe doạ tới một
sự trở lại các cuộc chiến tranh tôn giáo và rằng, tất cả bọn ngoan cố đều là kẻ
thù của Quốc Gia, không có ngoại lệ.
Trong một thời gian ngắn, những biện pháp tương tự được thi thành, bắt
giữ và trục xuất sai luật pháp hàng trăm linh mục mà không xét xử, tổng cộng có tới ít nhất 9
khu vực tỉnh thành trong cả nước.
Mục tiêu thứ hai
của sự đàn áp tràn lan này là giới quý tộc.
Tại các tỉnh Cher và Indre thuộc trung tâm nước Pháp, các giáo sĩ ngoan
cố tương đối ít và thường không bị coi là nguy hiểm, nhưng khi tin về vụ
Varennes đến đã gây nên nỗi lo sợ rằng những nhà quý tộc trong vùng đang tổ chức một cuộc tấn công phản Cách mạng. Nhiều quận
lỵ đã gửi vệ binh tới tước vũ khí tại các lâu đài. Thị trấn Bourges còn đi xa hơn
nữa, ra lệnh cho tất cả cư dân là quý tộc
phải ở nguyên tại thị trấn và cho vệ binh canh gác mọi cổng thành để bảo đảm không
ai lọt ra ngoài, như thế sẽ ngăn chận hành động liên kết của những người đã công
khai bày tỏ các nguyên tắc của họ ngược lại với ý nguyện chung. Hầu hết, những chính sách này được thực thi một
cách hòa bình với vệ binh được chỉ thị một cách chuyên biệt để hành động mang phong
cách lịch sự và có lý lẽ mà không có bạo động.
Tuy nhiên, không
có nơi nào mà sự đàn áp tập thể các nhà quý tộc dữ dội hơn vùng Brittany. Ở đây,
các viên chức không chỉ phiền toái với số lượng giáo sĩ ngoan cố lớn nhất trong
cả nước, mà những mối căng thẳng lâu năm giữa qúy tộc và thường dân đã rất trầm
trọng bởi nền chính trị khu vực ngay trước những ngày đầu của Cách Mạng. Sau cuộc
trốn chạy của nhà vua và được các giới chức địa phương khuyến khích, vệ binh Quốc
Gia Breton từ nhiều thị trấn phóng ra một cuộc khủng bố kinh hoàng tại vùng quê,
quấy nhiễu những quý tộc và giáo sĩ bị tình nghi, lục soát tìm vũ khí và đôi
khi phá hủy các lâu đài. Trong một tỉnh
thành, giới thẩm quyền đã buông lỏng cho tự do theo đuổi toàn thể hội viên của
2 nhóm bị tình nghi này. Họ viết: “Kẻ thù của chúng ta đang tạo nên một cuộc chống
trả cuối cùng. Hận thù và sự cuồng tín sẽ gây nên rắc rối chưa từng có và sẽ không
có gìới hạn nào về các biện pháp chúng ta có thể xử dụng để ngăn chận những nỗ
lực của bọn chúng. Sau những mệnh lệnh trên, các vệ binh bắt đầu đột kích mọi
dinh thự lãnh địa để loại trừ những phương tiện mà kẻ thù của Hiến Pháp có thể
xử dụng để lật đổ Quốc Gia. Các lãnh đạo của các tỉnh lân cận còn đi xa hơn và
ra lệnh chiếm giữ tài sản của giới quý tộc đã bỏ đi ra nước ngoài. Kể từ khi
nghị quyết ngày 21 tháng Sáu của HĐCMQG ngăn cấm mang tiền bạc hay kim loại quý
ra khỏi biên giới, dường như hợp pháp để tịch thu những nguồn lợi tức của đám
quý tộc vắng mặt, những lợi tức mà có thể được chuyển ra nước ngoài để hỗ trợ
những kế hoạch phản Cách Mạng chống lại đất nước.
Với việc các nhà
lãnh đạo khuyến khích việc trấn áp và căng thẳng dâng cao tới mức độ bùng nổ vì
sự hoảng hốt bị xâm lăng, Brittany có lẽ là nơi có nhiều vụ bạo hành một cách đặc
biệt.Tại vùng phía Đông của Rennes, tin tức về vụ Varennes đã làm họ gửi khoảng
ba tới bốn ngàn dân quân tới những làng
mạc để săn lùng các giáo sĩ ngoan cố. Bực bội vì không tìm thấy một tay quý tộc
đặc biệt, người đã hỗ trợ các giáo sĩ bất đồng chính kiến, vệ binh đã đốt cháy
lâu đài của ông và không lâu sau đó, nhiều lâu đài trong vùng cũng bốc cháy. Cũng
với tin nhà vua chạy trốn, một phân đội vệ binh tới cả trăm người được phái tới
lâu đài của Le Préclos gần Vannes, nơi có một nhóm quý tộc bị tình nghi nghe nói
đang tập trung. Họ tới đó lúc 4 giờ sáng, đánh thức cư dân với trống đánh vang
và tiếng súng nổ, đám dân quân yêu nước bắt
lên xe chở đi 18 đàn ông với tay bị trói quặt ra sau và giam giữ họ
trong đồn lũy như những “tù binh ”. Các nhà lãnh đạo ở La Roche-Derrien gần bờ
biển Đông Bắc của Brittany cũng đi ra ngoài giải trừ vũ khí tất cả những kẻ hưởng
đặc quyền ưu tiên trước đây trong vùng. Dường như không ai chống cự lại cho đến
khi vệ binh tiến tới lâu đài Tralong nơi vị bá tước du Rumain nóng tính đã chào
đón họ bằng những phát đạn từ một khẩu súng tầm ngắn thời thế kỷ XVII và một cây súng bắn đá cổ xưa. Sau khi nhiều người dân
bị thương và một đơn vị vệ binh nữa được gọi tới, họ đột kích vào lâu đài giết
chết Du Rumain.
Khi cuộc khủng
hoảng tháng Sáu qua tháng Bẩy giảm bớt cường độ và khi chính quyền trung ương
tiếp nhận nhiều báo cáo hơn từ các vùng tỉnh, HĐCMQG bắt đầu phê bình chỉ trích
các màn thô bạo nhất của chiến dịch trấn áp tập thể. Các viên chức tỉnh lỵ tại
Quimpet có lẽ chịu áp lực từ Paris đã đưa quận lỵ Landerneau ra chịu trách nhiệm
về việc bắt giữ tập thể giới quý tộc và giáo sĩ cứng đầu, những người mà tội ác
của họ chỉ là bị tình nghi đã có những ý kiến phản Cách Mạng nhưng chưa bao giờ
làm bất cứ gì cản trở trật tự chung. Những hoạt động như vừa kể không những chỉ
vi phạm pháp luật và quyền con người, mà điều đó còn làm tình trạng thêm bất ổn: “Khuấy động thêm rắc rối, gây hoảng
sợ cho cá nhân và đe doạ tài sản của họ, tất cả đáng khiển trách vì nó làm tổn
thương đến tinh thần tự do và các nguyên tắc của bản Hiến Pháp.” Nhưng quận lỵ
Landerneau nhất quyết biện hộ cho các hành động của họ. Trường hợp của cuộc khủng
hoảng và mục tiêu căn bản của việc cứu nguy Hiến Pháp đã biện hộ cho tất cả mọi
biện pháp mà họ đã xử dụng. Họ tuyên bố: “Máu rồi sẽ phải đổ thôi! Chúng tôi chỉ
có một chọn lựa, đó là bắt giữ kẻ thù trước khi bọn chúng phạm tội ác và giết
người. Đám giáo sĩ cứng đầu và quý tộc thì đơn giản quá nguy hiểm mà tin chúng,
ngay cả đối với những kẻ núp đằng sau cái mặt nạ đạo đức giả ái quốc.” Cuối cùng,
các viên chức Landerneau không chịu hối lỗi: “Trong sự phân tách những người có
thể gây rắc rối và bất ổn, chúng tôi phục vụ cả hai thứ: con người và Hiến Pháp. Chúng tôi nhất quyết
tiêu diệt chúng và chúng tôi sẽ không ngừng theo đuổi chúng cho đến khi ngọn lửa
thiêng đang bừng cháy trong trái tim chúng tôi thanh tẩy hết mọi ngõ ngách của
đất nước Pháp này.”
Cuộc tranh luận
giữa Landerneau và Quimpet biểu hiệu cho tình trạng phân vân khó xử mà người dân
Pháp phải đương đầu khi đối diện với cuộc chạy trốn của nhà vua. Ngay trong thế kỷ XX, trong những xã hội nơi
văn hoá dân chủ tự do đã mọc rễ sâu đậm, các giai đoạn chiến tranh và sự đe doạ
khủng bố cũng đã tạo nên những tình trạng
khó xử hợp pháp về những đòi hỏi cho sự trấn áp có thể ngăn chặn trước. Đối với những người cả nam nữ đã từng sống duới
chế độ toàn trị và những người chỉ vừa mới biết về ý nghĩa của công lý và các
quyền công dân, các biến cố tháng Sáu 1791 đã phô trương ra những vấn đề vô cùng
rắc rối. Các nhà Cách Mạng tự thấy chính họ buộc phải thương lượng một sự cân bằng
tế nhị giữa nguyên tắc và phương tiện thực hành, giữa luật pháp và nhu cầu an
toàn công cộng, giữa tự do cá nhân và phòng thủ cộng đồng, giữa việc duy trì
quyền con người và việc bảo vệ tổ quốc. Trong những nỗ lực mò mẫm để đương đầu
những tình trạng khó xử này, nhiều công dân của các tỉnh thành đã lao mình vào
những lối hành cử trấn áp bên ngoài phạm vi luật định, vi phạm luật hội họp, vi phạm việc tình
nghi không chứng cớ, giam giữ người lâu dài quá kỳ hạn. Tất cả những điều này là
điềm báo trước cho những chiến thuật của một thời kỳ khủng bố.
No comments:
Post a Comment