Chương 2: Nhà vua nước
Pháp
Trung tâm của bi
kịch này là vua Louis XVI, vị vua thứ năm của dòng họ Bourbon. Khi có mặt tại Varennes,
ông vừa 36 tuổi. Nhà vua là một người bí ẩn, kỳ lạ, ở nhiều khía cạnh, không giống
như bất kỳ các vị vua mà ông kế vị hay nối ngôi ông sau đó. Ngay cả những người
đương thời với nhà vua biết rõ ông cũng cho rằng ông là người rất khó để đánh giá, khó tiếp cận và cũng khó tiên đoán. Không biết
vì nhút nhát, thiếu dứt khoát hay có một chiến lược chính trị mà nhà vua rất ít nói, luôn tư lự và
không thể dò xét được.
Ngay từ khi còn
nhỏ, nhà vua đã là đứa trẻ ít nói, thiếu tự tin và chẳng bao giờ cảm thấy thoải
mái trong một thế giới đầy phô trương, nịnh hót, và trí tuệ là một thiết yếu
cho cuộc sống trong triều tại cung điện Versailles, nơi cư ngụ của hoàng gia ở
cách Paris chừng 15 dặm về phía Tây Nam. Louis là con trai thứ hai trong gia đình
4 cậu con trai của vua Louis XV triều đại
tiền nhiệm và ông bị coi thua kém nhất trong đám anh em của ông. Những người đương
thời đã
hiểu lầm tính nhút nhát và chậm chạp của ông như là biểu hiệu của sự thiếu
thông minh, và cái hình ảnh tiêu cực này cũng bắt nguồn từ cái diện mạo bề ngoài
của ông. Mặc dù thừa hưởng cặp mắt xanh và mái tóc vàng từ người mẹ, nhà vua lại
có chiều hướng mang vóc dáng to lớn xồ xề của cha, một đặc tính hỗn hợp qua thời
gian bởi việc mê ăn uống quá độ. Ngay từ thời còn trẻ, nhà vua dường như ít
quan tâm tới diện mạo của mình. Ông bước đi chậm chạp trong một dáng đi vụng về
siêu vẹo coi thật chướng mắt với sự lịch lãm của triều đình.
Bà De Campan, một
trong các nữ cận thần của hoàng hậu đã diễn tả một cách tiêu biểu: “Bước đi của
nhà vua nặng nề và chẳng có dáng vẻ quý phái. Nhà vua chẳng quan tâm tới y phục,
và mặc dù với những nỗ lực hàng ngày của người thợ chăm sóc đầu tóc, tóc tai nhà
vua cứ rối bù vì những cử chỉ bất cần của nhà vua.”
Người đương thời
cũng vô cùng bối rối với sự đam mê của nhà vua vào các hoạt động lao động tay
chân như thợ khoá, thợ nề, những sở thích
gây sốc cho những thành kiến chung về sự tiêu khiển thì giờ của một vị vua mà nghe
nói đến cả người dạy ông làm khoá cũng đã bảo ông. Chỉ có một hành vi có vẻ thích
hợp cho cả những kỳ vọng và hình ảnh chung với các vị tiền nhiệm là việc ham mê
săn bắn của ông. Ngay từ thời còn trẻ, ông
đã ra khỏi nhà hầu như mỗi ngày, đi lang thang trong những khu rừng bao quanh Paris, và cố học thuộc lòng tên các
con đường bộ và đường thuỷ. Là một vị vua, ông sẵn sàng huỷ bỏ một buổi gặp gỡ với đại sứ ngoại quốc
để đi săn nếu có một ngày nắng đẹp, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc.
Và ông cũng ghi chép rất tỉ mỉ mọi cuộc săn bắn, lập danh sách từng con nai,
con heo rừng, thỏ và cả chim chóc bị bắn hạ hay bị săn lùng bởi đàn chó săn của
ông với một số lượng cực lớn đến 200,000 món trong suốt 14 năm.
Dù có những nhận
xét không đúng của các quan lại trong triều, các đại sứ và mặc dù cả với những
nghi ngại của chính ông, Louis không phải là không thông minh. Vấn đề giáo dục ông đã được chăm sóc đáng kể,
đặc biệt sau cái chết của người cha và người anh tral lớn của ông làm ông trở nên
kẻ thừa kế ngai vàng. Nhà vua tự ép mình một cách có phương pháp, có lẽ là cố ẩn
mỉnh vào trong việc nghiên cứu học hỏi theo
những đòi hỏi của triều đình bù cho những
thiếu sót và sự thiếu quý phái lịch thiệp, thành quả giáo dục của vua không phải
là không ấn tượng. Nhà vua học cùng lúc ba ngôn ngữ, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng
Ý. Với một trí nhớ tuyệt vời cho từng chi tiết, nhà vua xuất xắc trong môn thiên
văn học, địa lý và lịch sử và với sự giúp đỡ của một thày dạy kèm, nhà vua đã
thực hiện một bản dịch sách của sử gia Anh Gibbon. Nhà vua đọc sách suốt đời, đôi
khi cũng bình luận trên những bài báo đã đọc và còn mua cả ấn bản bộ sưu tập Bách
Khoa tự điển Encyclopedia vào năm 1777. Nhà vua cũng đam mê nghiên cứu bản đồ và
hiểu biết địa hình nước Pháp vô cùng tường tận. Có đôi khi còn vẽ ra những kế
hoạch về những giải đất mà ông hy vọng có ngày sẽ trở thành vương quốc của ông.
Quả thực, nhà vua hầu như có một ham thích
đến độ ám ảnh về dữ kiện và con số như
đã chỉ ra rõ qua những ghi chép về
săn bắn của ông với những danh sách dài vô tận và những biểu đồ vắn tắt được vẽ
lên với sự chính xác của một kế toán viên hay một tu sĩ Biển Đức: về tên tuổi và
nghề nghiệp theo yhứ tự thời gian của những hầu cận trong cung điện và những người chăm sóc đàn
chó săn; tên tuổi và tiểu sử của từng con ngựa ông cưỡi từ khi 11 tuổi (128
con cả thảy) và của mọi thú vật nhìn thấy
trong các công viên hoàng gia và từng chi tiết của sự chi tiêu trong nhà của cá
nhân ông. Nhà vua cũng duy trì một nhật ký cá nhân, nhưng đây cũng chỉ là một tóm
lược thật sự về các hoạt động của ông mà
chủ yếu, săn bắn chiếm vị trí tự hào nhất. Chẳng có chỗ nào chỉ ra một chút tình cảm hay
ý tưởng cá nhân của ông cả.
Có lẽ khá hơn các
vị vua tiền nhiệm trong dòng họ Bourbon của ông, Louis đã nhận được những chỉ dẫn cặn kẽ từ người thày dạy kèm khi ông này nhận
thừc được những nhiệm vụ và bổn phận cuả
người làm vua mà vua Louis đã sao
chép lại như một loại giáo lý hoàng gia. Có thể không nghi ngở gì rằng
nhà vua chịu ảnh hưởng sâu đậm từ việc học hành về tôn giáo của ông, và ông đặt sự kính trọng
và đạo đức Kitô rất quan trọng hệt như bất
cứ vị vua nước Pháp nào trong thời đại trước đổi mới. Người thày dạy ông đã tìm
cách để ông ghi khắc những lời giáo huấn về tôn giáo trong lòng của nhà vua và
trong suốt cuộc sống , ông tham dự thánh lễ mỗi ngày và thực thi mọi nghĩa vụ tôn
giáo trong mùa Phục Sinh hết năm này qua
năm khác như ông đã ghi chép rõ trong nhật ký. Thần quyền của ông để cai trị thật rõ ràng và không thể tra vấn: “Ta biết rõ
rằng ta nợ nần Thiên Chúa vì Người đã chọn ta để cai trị dân”. Nhà vua đã viết
ngay trên trang đầu tiên của môn tôn giáo của ông. Và có lẽ từ những bài học từ thày dạy và từ ý
tưởng về cái nhiệm vụ Kitô giáo và tinh thần gia trưởng mà nhà vua có được một
niềm tin vững chắc về cái trách nhiệm của một ông vua đối với thần dân. “ Thần
dân của ta nên biết rằng niềm ước ao và mối quan tâm đầu tiên của ta là giảm bớt
gánh nặng và cải thiện điều kiện sống họ tốt hơn. Lòng từ thiện của một ông hoàng
phải theo gương lòng từ bi của Chuá,” một cảm nhận mà ông nhắc đi nhắc lại cả trước và trong cuộc
Cách Mạng. Cùng lúc đó, nhà vua dường như cảm thấy một nhu cầu tâm lý cần được đánh
giá bởi thần dân và nhận được những sự tung hô của họ cho những nỗ lực của ông.
Nhà vua đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi buổi tiếp tân nổi tiếng ông nhận được trong
ngày lễ đăng quang của ông tại Reims năm 1775, một năm sau ngày vua lên ngôi. Ông diễn tả cuộc du hành của ông từ Paris đến
cảng Cherbourg, ngự trên chiếc xe ngựa diễn hành qua đán đông tung hô vạn tuế là
một trong những giây phút trị vì hạnh phúc nhất. Cho đến cuối cuộc đời, ông rất
đau lòng nếu như đám đông dân chúng quên
lời chúc tụng truyền thống: “vạn tuế Hoàng Thượng!” hay khi tiếng tung hô của họ
không còn nhuệ khí.
Nếu nhà vua thu
thập được từ người thày dạy dỗ và từ sự siêng năng đọc sách của ông về sự khai sáng nhấn mạnh vào sự hữu dụng và ý chí tổng quát, điều đó chứng tỏ rằng ông
hiểu những quan niệm như vậy nằm trong giới hạn của chế độ phụ hệ. Nhà vua phải
cân nhắc ý chí chung trong những quyết định của ông, nhưng cái ý nguyện của nhà
vua sẽ là phán quyết cuối cùng, là chất lượng tốt nhất của luật pháp. Song hành hiện hữu với niềm tin của mình về
trách nhiệm của nhà vua đối với an sinh của thần dân, nhà vua duy trì một cảm nhận
mạnh mẽ về một xã hội thượng lưu, có thứ bậc trong thân phận và tầng lớp cao thấp, khó có thể xoá
bỏ từ những tập quán của thời đại khai sáng. Nhà vua rõ ràng sở hữu cùng lúc
hai quan điểm, hai mục đích trái ngược nhau, một mặt là mối an sinh xã hội, mặt
khác là sự bảo toàn cái uy thế và vương quyền mà nó đã gây rắc rối cho cả một thế hệ nếu như các vị vua ở cuối thế kỷ 18, các vị vua mà đôi khi
được gọi là những kẻ “độc tài sáng suốt”. Những khó khăn nội tại về cái phân chia đối
nghịch này càng phức tạp bởi cá tánh của vua Louis với bản
tính thiếu tự tin của ông mà dường như mỗi ngày mỗi tăng thêm. Bị giằng xé giữa cái tính thiếu xác quyết trong phán đoán
và từ những bất đồng giữa các cố vấn của ông, giữa một mặt muốn cải tổ, mặt khác
lại muốn giữ gìn truyền thống cai trị, nhà vua thường thấy việc làm một quyết định là một diễn tiến tàn khốc. Theo phu nhân De Tourzel, người bảo mẫu các
con của vua và đã đi theo hoàng gia đến Varennes, nhà vua mang trên người sự
thiếu tự tin quá trầm trọng, cứ luôn luôn nghĩ rằng người khác hiểu sự việc hơn
ông. Sau cái chết của nhà vua, bà viết: “Trái tim ông đưa ông tới nhìn ra sự thật,
nhưng với những nguyên tắc, những thành kiến, những nỗi lo sợ, những đòi hỏi về
những đặc quyền và lòng tôn kính đã hù doạ ông và đưa đến việc ông bỏ rơi cái ý
tưởng là sự thương yêu thần dân của ông đã đưa đến việc ban đầu ông thừa nhận.
Cá tính của nhà
vua càng trở nên phức tạp hơn nữa vào 1770, khi nhà nước hợp cùng hệ thống các
đồng minh quốc tế đã kiếm cho ông một bà vợ và một hoàng hậu tương lai.
Marie-Antoinette là đứa con gái áp út trong số 16 đứa con của nữ quận chúa
Maria-Theresa và trẻ hơn Louis một tuổi.
Bà dễ thương và quyến rũ cho dù không quá đẹp với mái tóc vàng, cánh mũi chim ưng và môi dưới đầy đặn. Hoàng hậu chỉ nhận được một nền giáo dục cơ bản. Bà nói tiếng
Pháp khá tốt với giọng hơi lai âm hưởng Đức nhưng gặp khó khăn khi viết lách và
dường như chẳng bìết gì về lịch sử, địa lý và văn chương. Người thày dạy kèm được
gửi đến Vienne để chỉ dạy cho nàng công chúa 14 tuổi về vai trò tương lai của một
hoàng hậu nước Pháp đã diễn tả rằng bà thông minh nhưng rất bướng bỉnh và khó lòng
chú ý lâu tới bất cứ gì đụng chạm tới việc học hay nói chuyện nghiêm chỉnh. Người
ta hiếm khi có thể nhận thức được một cặp
vợ chồng không xứng đôi như vậy: một Louis nặng nề chậm chạp, nội tâm bất an và
một công nương thanh lịch, nhanh nhẹn và đầy tự tin. Cái tiềm năng của sự bất đồng
còn phức tạp hơn vì cái tình trạng sinh lý bất thường gây hoạ cho cặp vợ chồng
trong 7 năm đầu cuộc hôn nhân của họ. Một
dị tật trong bộ sinh dục gây cho Louis bị
đau đớn trong việc chăn gối khiến ông gần như không thể thực thi nhiệm vụ của một người chồng. Thời gian qua đi nhưng hoàng hậu vẫn không có
thai và khi có tin đồn rằng hoàng hậu cảm thấy
chán ngán chồng, và rồi những miệng lưỡi độc địa bắt đầu loan truyền những
chuyện nhảm nhí của bà cùng lúc với sự bất
lực của Louis. Đó thật là một điều sỉ nhục mà nó càng hạ thấp bản năng tự tin của
một ông vua mà các vị vua tiền nhiệm từng tự hào về sức mạnh sinh lý của họ.
Cuộc hôn nhân sắp
tan vỡ đã được vãn hồi vào năm 1777, ba năm sau ngày Louis lên ngôi khi Hoàng đế
nước Áo Joseph II và cũng là người anh cả của hoàng hậu du hành đến Versailles
với nỗ lực để cứu vãn tình huống. Vua Louis được thuyết phục đi giải phẫu chữa
dị tật để dễ dàng chăn gối với vợ. Đồng thời, bà hoàng hậu trẻ cũng bị người
anh khiển trách về việc đã không làm tròn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ
để giúp hoàn tất chiến lược quốc tế của gia đình. Sự thành công của Joseph trong việc cố vấn hôn nhân quả thực rất ấn tượng:
hoàng hậu đã có thai 5 lần trong 8 năm sau đó với 1 con gái và 2 con trai sống
sót. Khi đưá con đầu lòng sinh ra, Louis tràn ngập niềm vui và rất biết ơn vợ. Ông
hãnh diện tuyên bố trước triều đình rằng sẽ cố gắng nhiều hơn để có thêm người
nối dõi.
Đặc biệt sau khi
Louis đã có kế truyền, một mối quan tâm lớn lao đối với người dân Pháp, nhà vua
có thêm nhiều ngưỡng mộ trong dư luận quần chúng. Theo sau sự vỡ mộng của họ dưới sự trị vì của
vua Louis XV với hàng đống cung nữ và sự bỏ bê công việc triều chính của vị vua
này, nhiều người dường như bám lấy vị vua trẻ, công khai ca ngợi sự trung thực của nhà vua, sự siêng năng
trong công việc , lòng trung thành với vợ
và cả tinh thần sùng đạo của ông. Sự thân thiện, khiêm tốn, không kiểu cách
cung đình và sự ít quan tâm đến dáng vẻ bên ngoài, tất cả đều làm cho công chúng
quý mến nhà vua. Những trang ’chuyện tầm phào’ của tờ báo Mémoires sescrets đã
mô tả nhà vua vào năm 1778 như sau: “Không ai có thể thân thiết và tự nhiên hơn
vua Louis XVI.” Lại có những câu chuyện
về sự tử tế và thân thiện của ông với các đầy tớ trong cung, và khi săn bắn trở
về, ông chẳng cạo râu thoa mặt, quần áo thì xốc xếch. Cái hình ảnh bình dân tích cực này vẫn bền bỉ và còn mạnh mẽ
hơn trong những năm đầu của cuộc Cách Mạng.
Ngược lại, hoàng
hậu chẳng bao giờ khuất phục hay cố gắng để khuất phục cái hình ảnh tiêu cực mà
bà đã tạo nên trong những năm đầu tiên ở vị trí trị vì. Dù sao, việc có thai và
việc chăm sóc giáo dục con cái đã giúp
giảm bớt sự bồng bột của bà và cũng bớt đi
những hội hè giải trí thâu đêm trong những năm đầu trong cung điện. Dù vậy, bà
chẳng bao giờ thấy hoàn toàn thoải mái ở Pháp và luôn luôn ghét những lễ nghi công
cộng dài lê thê và nhàm chán ở tại Versailles. Hoàng hậu ngày càng trở nên riêng
tư và gắn bó với việc xã hội hoá của riêng
cá nhân bà, tập trung ở quanh bà một nhóm
nhỏ cả nam và nữ, những người trẻ đẹp lôi cuốn và quý phái như ông hoàng Artois
đứa em út của nhà vua, công nương De
Lamballe và nữ quận công xinh đẹp De Polignac. “mụ người Áo”, cái hỗn danh mà bà bị gọi một cách thô tục, đã trở
thành đề tài của tin đồn và lời đàm tiếu
không khi nào dứt. Bà bị mô tả trong mọi hành vi dâm loạn và cả những hànnh xử
đồng tính. Chuyện bê bối về chiếc dây chuyền có gắn kim cương mà hoàng hậu bị tố
cáo là đồng loã trong một vụ lừa đảo bạc triệu trong triều đình càng làm cho hình
ảnh của bà trước công luận thêm tệ hại. Có lẽ là việc nhà vua ít quan tâm đến
triều chính và việc hoàng hậu độc xử quyền
hành, cho nên nhiều dòng họ quý tộc cảm thấy bị bỏ rơi hay bị gạt bên lề, Do đó,
nhiều thành viên trẻ trong những dòng họ này chẳng bao lâu đã ngả theo sự cải tổ
của Cách Mạng.
Mặc dù hầu hết
những tin đồn về cuộc sống truỵ lạc của hoàng hậu là không đúng sự thật, nhưng
quả thực có một người đàn ông trong số những bạn thân của bà dường nnhư có liên
hệ đặc biệt với bà. Đó là một bá tước
Thuỵ Điển và là một sĩ quan trẻ tên Alex von Fersen khi họ quen biết nhau từ thời
thơ ấu khi bà là một công chúa nước Áo và anh chàng đang làm một vòng quanh Âu
Châu. Anh ta đi vắng trong nhiều năm,
chiến đấu dưới quyền tướng Rochambeau trong cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, nhưng thỉnh
thoảng cũng trở lại thăm viếng Versailles khi được nghỉ phép. Chẳng bao giờ bị
quyến rũ bởi người Pháp, nhưng hoàng hậu lập tức bị lôi cuốn với anh chàng ngoại quốc đẹp trai
với phẩm cách điềm đạm và kín đáo này, không giống như những chàng trai khác trong
triều. Qua sự giúp đỡ của hoàng hậu, anh chàng có được một trung đoàn quân lính
riêng và một nơi cư trú tại Paris. Sau
khi sinh đứa con út vào năm 1786, vợ chồng
vua Louis một lần nữa sống ly thân và có lẽ chính trong giai đoạn này,
hoàng hậu và vị bá tước Thuỵ Điển trở nên thân thiết đặc biệt. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết họ có thật sự
là tình nhân của nhau không. Fersen luôn luôn duy trì một vị trí bí mật đáng kể trong triều. Thế nhưng
họ đã có rất nhiều lần gặp gỡ nhau trong cái biệt thự nho nhỏ Petit Trianon ở
trong khu rừng ở gần Versailles. Bá tước De Saint-Priest, một đại quan trong
triều biết rõ về đời sống hoàng cung đã tin rằng chẳng có gì nghi ngờ, đã diễn tả Fersen như một “tình nhân hờ” của hoàng
hậu cũng hệt như quận chúa “ De Pampadour” từng là tình nhân hờ ) của vua Louis
XV. Cho dù bất cứ quan hệ của họ như thế
nào, cả hai vẫn duy trì một sự gắn bó sâu đậm và thân thiết như đã được làm rõ
trong những thư tín riêng tư của Fersen gửi cho em gái của anh chàng, một gắn bó
mà nó đóng một vai trò chủ chốt trong cuộc trốn chạy của hoàng gia năm 1791.
Nhà vua và cuộc Cách
Mạng
Vào những năm cuối
1780s, nhà vua, hoàng hậu và cả nước Pháp cùng bị cuốn hút vào một chu kỳ đất
nước bị khủng hoảng và bất ổn. Những khó khăn ngày càng tăng về tài chánh xảy
ra từ việc nước Pháp dính líu vào cuộc Cách Mạng Độc Lập của Hoa kỳ, tuy thành
công nhưng quá tốn kém, đồng thời cũng bởi cái gệ thống thuế khoá không hiệu quả
và bất công làm cho đất nước không thể trả nợ. Vai trò của nhà vua trong chế độ
cũ và trong sự ra đời của cuộc Cách Mạng có thể tranh cãi không bao giờ dứt. Nhưng cái ảnh hưởng nặng nề nhất của vua
Louis về một loạt các biến cố có lẽ xảy ra từ việc nhà vua đã không làm, hơn là
việc vua đã làm: đó là từ sự thiếu lãnh đạo,
thiếu quyết đoán và thiếu kiên trì của ông.
Vào những ngày
tháng trị vì đâu tiên, sau cái chết của ông
nội nhà vua, vua Louis XV năm 1774, ông
vua trẻ dường như đã áp dụng cho mình ngôi vua bằng một nỗ lực đáng kể và một tinh thần trách nhiệm. Nhà vua tiêu nhiều thì giờ đọc các báo cáo và
tham khảo cùng các quan bộ trưởng. Việc tiếp xúc của nhà vua với bộ trưởng ngoại
giao đôi khi tỏ ra vụng về ngượng nghịu, nhưng vẫn chứng tỏ nhà vua có khả năng
nắm bắt những phức tạp trong liên hệ quốc tế. Nhà vua chăm chú theo dõi những
biến cố cách mạng ở các vùng thuộc địa Mỹ châu
và có đắn đo đóng góp trong việc phát triển một chính sách can thiệp của
Pháp vào đó với ngụ ý ủng hộ những kẻ bị áp bức khi họ gõ cửa xin cứu giúp, nhưng
trên hết là để trực tiếp đánh vào đế quốc Anh, một kẻ thù không đội trời chung
mà trong quá khứ đã từng dám sỉ nhục thanh danh của nước Pháp. Tuy vậy, nhà vua vẫn tiếp tục trông cậy vào sự
cố vấn và quyết định của hai nhân vật đại biểu lão thành là 2 bá tước Maurepas
và Vergennes, thầy dạy dỗ và hướng dẫn trực tiếp nhà vua khi ông mới lên ngôi.
Sau khi 2 ông qua đời vào 1781 và 1787, với cuộc khủng hoảng tài chánh trở nên
không kiể soát được và với những âm mưu
và tranh chấp giữa các đại quan trong triều ngày càng tăng cường độ, nhà
vua lúng túng dựa vào hết viên cố vấn này
đến quan đại thần khác mà việc triều chính dường như quá nhiều đến vuột khỏi tầm
tay. Hết năm này qua năm khác, Louis bỏ
thêm thì giờ cho việc săn bắn và số lượng thú săn được trong sổ ghi chép danh sách
càng tăng đột biến. Trong thâm tâm nhà vua, ông tiếp tục muốn thần dân thật hạnh
phúc, nhưng thực tế ông thấy bấp bênh và phân vân chẳng biết làm sao để đạt được
mục đích ấy. Những ai quan sát ông kỹ vào những năm cuối 1780s sẽ thấy nhà vua
ngày càng trở nên lờ đờ chậm chạp. Là người luôn trầm tư và thiếu bặt thiệp, giờ
nhà vua lại thêm lắp bắp và nín lặng; có lúc ông ngủ gục và ngáy khò khò ngay
giữa buổi thiết triều quan trọng. Đa số việc trị vì đất nước của nhà vua sau này
đong đưa giữa những vị quan tiến bộ và những vị bảo thủ, giữa những nỗ lực cải tổ cấp tiến từ thượng tầng và những
phản ứng cố thủ. Cuối cùng, vào giữa năm 1788, duới thế lực của tổng giám mục
Loménie de Brienne và sau đó thêm áp lực của
chủ ngân hàng Thuỵ Sĩ Jacques Necker, vua Louis bị thuyết phục thi hành một bước quan trọng là triệu tập Đại
Hội Toàn Quốc để tham khảo về tình trạng suy thoái của đất nước. Nhưng những biến
động liên tục trong chính sách không chỉ tạo thêm những bất trắc và bất ổn của đất nước sâu xa hơn, mà qua những màn cải tổ không phù hợp, nó còn giúp giáo dục
quần chúng và làm cho họ quen thuộc dần với
sự thay đổi lớn lao có thể sẽ xảy ra.
Những năm cuối
1780s, ảnh hưởng của hoàng hậu về mặt chính trị cũng tăng dần. Trong những năm
đầu mới lên ngôi, nhà vua tự động loại hoàng hậu ra khỏi những cuộc họp hội đồng
và những quyết định về chính sách theo như lời khuyên bảo của các vị cận thần dạy
học chống lại người Áo, hay có thể hoàng hậu tin như vậy. Tuy thế bà cũng đã thực thi một lối ảnh hưởng
gián tiếp với năng khiếu của bà kết thân hay loại trừ từng cá nhân các quan lại.
Việc dính líu của bà trong một âm mưu trong triều rõ ràng đóng một vai trò
trong sự thất bại của của vị quan cấp tiến Turgot năm 1775 và của nội các Necker đầu tiên vào năm 1781. Vào thời điểm đó, người
anh trai hoàng đế của bà đã phẫn nộ vì sự can thiệp đó của bà, đặc biệt vì nó
chẳng giúp gì cho bước tiến của Áo. Rồi hoàng đế Joseph II và bá tước de
Mercy-Argenteuil, vị đại sứ có tài của ông thường xuyên rèn luyện hoàng hậu về chính sách Hapsburg, chỉ bảo bà về các vấn đề
chính trị quốc tế và uốn nắn bà trở thành một gián điệp Áo thực thụ ở ngay đầu
não của nước Pháp. Khi cuộc Cách Mạng tiến gần tới, vua Louis đã mất hầu hết những
cố vấn đáng tín cẩn nhất và ông trở nên rối loạn và phân vân cùng cực với những
chính sách cải tổ bị thất bại, và ông đã tìm đến với Marie để tham vấn mọi vấn đề. Vào
năm 1788, nhà vua bắt đầu cho mời hoàng hậu tham gia vào một số những buổi họp
hội đồng nhất định. Ngay cả khi bà không có mặt trong buổi họp, đôi khi nhà vua
rời phòng họp giữa buổi triều chính để đi tham khảo hoàng hậu dưới sự lo ngại và
bất mãn của các đại thần. Không như Louis, hoàng hậu Marie chẳng bị phiền toái
với sự phân vân thiếu quyết đoán. Bà không bao giờ nghi ngờ lấy một giây phút nào
rằng, những đề nghị cải tổ của những
“người yêu nước” và những vị quan cấp tiến sẽ là tai hoạ cho những gì bà tin tưởng. Việc đối
nghịch một cách kiên quyết của bà vói mọi hình thức đổi mới đã ảnh hưởng mạnh mẽ
lên nhà vua.
Trong suốt những
tháng ngày đầu tiên của Cách mạng, qua biến cố trọng đại tạo nên Hội Đồng Quốc
Gia, những cuộc nổi dậy long trời lở đất ở Paris như phá ngục Bastille, sự áp bức
của giới quý tộc cũng như những đặc quyền của giới giáo sĩ , và nhất là sự hủy bỏ hệ thống phong kiến, nhà
vua duy trì sự bình dân đáng kể với hầu hết mọi thành phần của quần chúng Pháp.
Các đại biểu yêu nước cản thấy thất vọng với bài diễn văn của nhà vua trong ngày
23 tháng Sáu, khi ông gắn bó với vị thế của
giới quý tộc bảo thủ và chối bỏ sự hiện hữu của Hội Đồng Quốc Gia. Nhưng không
lâu sau đó nhà vua được tha thứ với những biến cố dồn dập tiếp theo sau, những
biến cố rõ ràng có lợi cho Cách Mạng. Hầu hết những nhà ái quốc duy trì niềm tin rằng nhà vua vẫn cố gắng kiến
tạo những lợi ích tốt nhất cho đất nước, chẳng qua chỉ là một trường hợp thông thường của một vị vua tốt lỡ nghe theo những lời cố vấn sai trái.
Những phát triển sau này dường như đã đưa
ra chứng cớ rằng Louis một lần nữa đã gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và đón nhận Cách Mạng. Cái nhận thức
tích cực của nhà vua được củng cố thêm trong dịp đại Lễ Toàn Quốc nhân dịp kỷ
niệm đệ nhất chu niên ngày phá ngục Bastille. Chính ở nơi này, dưới sự hiện diện
của hàng trăm ngàn người cổ võ hoan hô mà Justin George, Etienne Radet và những
chàng vệ binh quốc gia đến từ thị trấn Varennes đã chứng kiến vua Louis giơ cao
tay trước bàn thờ tổ quốc tuyên thệ sẽ giữ vững bản tân Hiến Pháp. Bởi vì mọi
người đều biết rằng nhà vua là một người ngoan đạo thì việc thề hứa là một hành
động rất thiêng liêng, và vì thế đã có một niền vui lan toả rộng rãi rằng Cách
Mạng giờ đã chiến thắng và quốc vương rõ
ràng đã đứng về phía nhân dân, rất xứng đáng với tước vị quốc vương của nhân dân
Pháp quốc.
Nhưng khi nhìn lại
quá khứ, chúng ta biết rằng cái quan điểm bình dân này chỉ là một sản phẩm của
một ý niệm mơ ước hơn là thực tế. Ngay vào những ngày đầu tháng Sáu 1789, nhà
vua đã vô cùng giận dữ vì sự vô cảm của thành phần đại biểu ái quốc của Hội Đồng
Quốc Gia trước cái chết của hoàng tử đầu lòng của vua. Ông cũng vô cùng bất mãn
với việc Hội Đồng Quốc Gia từ chối nhượng bộ quyền phủ quyết tuyệt đối của ông vào tháng Chín
1789. Đối với nhà vua và hoàng hậu, biến động cốt lõi trong năm đó rõ ràng là
những ngày tháng Mười khủng khiếp. Trong 2 ngày 5 và 6 tháng Mười, hàng trăm phụ
nữ Paris và sau đó kéo theo hàng ngàn vệ binh quốc gia đã kéo nhau đi bộ đến
Versailles cưỡng ép nhà vua và hoàng gia
phải rời Versailles để về cư trú tại Paris. Không một ai trong đám tuỳ tùng
có thể quên cảnh tượng hoàng hậu hối hả chạy đi tìm nơi trú ẩn an toàn trong
cung điện vào buổi sáng sớm, trên người vẫn còn đang mặc đồ ngủ cùng với các
con và đoàn tỳ nữ. Chúng ta sẽ không bao giờ biết đám đông rượt đuổi bà có ý muốn
hãm hại bà hay chỉ muốn đối thoại với bà và chỉ yêu cầu cơm ăn áo mặc. Thế nhưng
tự bản thân hoàng hậu bà không nghi ngời gì về chuyện bà đã thoát chết trong đường
tơ kẽ tóc. Chiếc xe chở Hoàng gia đã phải quay về Paris ngay chiều hôm đó, đi cùng
với một đám đông cả nam lẫn nữ rất huyên
náo và thô bạo, có cầm theo và giơ cao vài cây sào nhọn trên có cắm thủ cấp của
mấy tên lính bảo vệ hoàng cung càng làm
tăng thêm một trải nghiệm của sự kinh hoàng và ghê tởm.
Trong sự phẫn uất
và phiền muộn, hoàng gia đã phải di chuyển tới nơi cư ngụ mới trong điện
Tuilleries ở phía tây của khu liên hợp vĩ đại Louvre nằm ngay trung tâm thủ đô.
Nhiều tuần liên tiếp sau đó, cả hoàng gia từ chối bước ra khỏi nhà hay đi dạo
trên những khu vườn kế bên. Một ít ngày sau biến cố ấy, nhà vua viết thư
cho vua Tây Ban Nha, cũng là một người có họ hàng thân thuộc với Louis, một bức
thư rất đáng chú ý mà nó chỉ được các sử gia tìm thấy vào thế kỷ 20. Trong lá
thư đó, vua Louis đã công khai và đầy tự tin khước từ toàn bộ cuộc Cách Mạng
và bày tỏ sự chống đối tới tất cả những ai đã hành động ngược lại với uy quyền
của hoàng gia bằng sự doạ nạt để cướp lấy nó kể từ cuộc tấn công vào thành Bastille.
Cho dù có bất cứ chút cám dỗ nào đã từng
giúp cho nhà vua cảm thấy cần hợp tác với
phong trào cải tổ, lúc này nhà vua hoàn toàn ôm chặt lấy cái hình ảnh truyền thống của vương quyền:
“ Trẫm nợ nần chính bản thân trẫm, trẫm
nợ con cái trẫm và trẫm nợ luôn gia tộc trẫm trong việc gìn giữ vương quyền, một
uy quyền đã được xác quyết trong dòng dõi hoàng gia của trẫm qua thử thách của
thời gian sẽ không suy giảm đi bất cứ lãnh vực nào.” Nhà vua tuyên bố một cách
trịnh trọng rằng chỉ có bản tuyên bố bảo hoàng của ông ngày 23 tháng Sáu mới là
chính sách mà ông đồng ý ký tên. Lúc này cả vua và hoàng hậu đều tin rằng có một
nhóm nhỏ Jacobin cấp tiến người Paris đã đang nắm quyền hành kiểm soát đất nước,
trong khi đại đa số nhân dân bên ngoài
thủ đô vẫn ủng hộ nhà vua và họ vẫn chờ cơ hội
để bày tỏ lòng yêu mến và sự tuân phục với vua. Nhưng tạm thời, khi nền
chính trị tồi tệ, nhà vua đành xử dụng chính sách kiên nhẫn chờ thời và cứ để cho lũ ác nhân làm
theo ý chúng cho đến khi ‘cái gọi là Cách Mạng’ tự hủy diệt qua các chương trình
dân chủ và công bằng xã hội không bao giờ
có thể thành tựu. Saint-Oriest đã viết: “ Nhà vua tự trấn an rằng cái Hội
Đồng Quốc Gia chắc chắn sẽ bị bất tín nhiệm bởi chính những sai lầm của nó. Sự mềm
yếu của nhà vua đã đưa đẩy ông đến những tư tưởng trên , như vậy giải thoát cho
ông về một nhu cầu phải đối diện thường
trực ngày qua ngày với những đối nghịch quá khó để một con người như ông chấp
nhận.
Bây giờ chúng ta
biết rằng, khi Louis dường như ủng hộ những hoạt động của hội Đồng Quốc Gia, lời
tuyên thệ của nhà vua cùng những lần ông xuất hiện trước Hội Đồng Quốc Gia đã
được biên soạn bởi các nhà quý tộc yêu nước và đạo diễn bởi hầu tước Lafayette,
một vị anh hùng trẻ trở về từ cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và là một tay lãnh đạo Cách
Mạng độc nhất có ảnh hưởng trong năm 1790. Một điều chắc chắn là sự kiên trì không
nao núng không bao giờ là sở trường của vua Louis. Nhà vua thỉnh thoảng lại từ
bỏ những đánh giá tình hình của chính mình. Cuối cùng vào mùa xuân 1790, hoàng
gia cũng mạo hiểm ra khỏi cung điện Tuileries dạo chơi trong vườn và còn dám ngồi
xe đi vào thành phố. Khoảng tháng Sáu, họ được phép đi đến lâu đài Saint-Cloud
của hoàng hậu ở mạn Tây Paris vả thời gian tiêu khiển ở vùng quê dường như đã nâng
cao tinh thần của họ. Nhà vua cũng ảnh hưởng lớn lao từ việc tiếp tân đầy nhiệt
tâm của ông trong dịp đại lễ Liên Bang và sự ăn mừng dài một tuần lễ sau đó. Nhà
vua ngày ngày cỡi ngựa đi xem xét quân binh và các đơn vị vệ binh quốc gia. Những
lời chúc tụng “vạn tuế đức vua” của họ vang lên đầy vẻ nhiệt tình và thành thật
giúp lấp đầy cái nhu cầu được yêu mến và quý trọng của ông. Trong lúc này, cả nhà vua và hoàng hậu đều đắm
chìm vào sự mê hoặc của bá tước Mirabeau, một diễn giả đại tài và cũng là một lãnh
đạo Cách Mạng, người tự coi mình như một cố vấn bí mật cho nhà vua và cũng mang
trong người cái viễn tượng về một thoả hiệp sẽ lấy lại uy quyền cho nhà vua bằng
một chế độ quân chủ lập hiến vững mạnh.
Tiếc rằng
Mirabeau bất ngờ qua đời tháng Tư 1791,
và trước đó khá lâu, nếu không hoàng hậu thì nhà vua đã hoàn toàn mất tin tưởng
vào vị bá tước. Hơn nữa, nhiều tháng trôi qua, khi tình hình ngày càng trở nên
phức tạp và bất định, nhà vua càng dựa hẳn vào lời khuyên và đường lối của hoàng
hậu. Có điều đáng ngờ là không biết có bao giờ hoàng hậu nghiêm chỉnh cứu xét một
thoả hiệp với Cách Mạng mà bà cho là cái
ác hay không? Trong suốt thời kỳ này, hoàng hậu viết thư phàn nàn với ông anh ở
Vienna và với người bạn tâm tình người Áo
Mercy-Argenteuil rằng bà và gia đìng cảm thấy như bị giam cầm bởi một bọn nổi
loạn hay những tên đầy tớ ngỗ nghịch. Bà
cảm thấy thật phẫn nộ vì sự cả gan của bọn chúng, dám kỳ vọng đòi ngang hàng với
giới quý tộc, hoặc ngay cả với vương triều. Bà viết cho Mercy vào tháng Sáu
1790: “ Lũ quái vật đó ngày càng trở nên xấc láo . Ta thật vô cùng thất vọng.”
Các từ ‘quái thú’, quái vật” được liên tục
nhắc đến khi bà nói về Cách Mạng. Khi viên đại sứ Tây Ban Nha nói chuyện với hoàng
hậu vào tháng Giêng 1791, ông ta có cảm
tưởng đứng trước một người đàn bà đang ở trong giới hạn tột cùng của sự chịu đựng.
Bà nói với ông bằng một giọng run run vì cảm xúc: “Louis sẽ không làm tròn bổn phận làm vua với chính ông,
với thần dân và với toàn thể Âu Châu nếu nhà vua bằng mọi giá không chịu gạt bỏ những yên xấu
xa đang bao vây chúng ta.” Dưới ảnh hưởng
của hoàng hậu, đồng thời với sự vụng về và tự dối lòng, Louis đóng vai trò lá mặt lá trái, một vai trò không
chỉ vô cùng nguy hiểm cho nhà vua mà còn là tai hoạ cho Cách Mạng và cho cả nước
Pháp.
Quyết định đào tẩu
Chúng ta có lẽ sẽ
không bao giờ biết chắc Louis đã làm cái
quyết định tối quan trọng trốn khỏi Paris như thế nào và khi nào. Vào cái
đêm ông thực sự trốn khỏi cung điện, nhà vua để lại trên bàn giấy một bản tuyên
bố viết tay ghi lại những mối bất bình để chứng minh cho cái quyết định rời bỏ
thủ đô và để chấm dứt việc hợp tác với các lãnh đạo Cách Mạng. Nhà vua cay đắng phàn nàn về việc nhà vua đã
bị Hội Đồng Quốc Gia tước bỏ hoàn toàn mọi quyền hành: từ việc trực tiếp điều hành
quân đội, quyền ngoại giao, quyền quản trị các vùng địa phương, quyền ban đặc xá
và nhất là quyền phủ quyết thẳng thừng các luật lệ mà nhà vua không chấp thuận.
Nhà vua vô cùng giận dữ với việc Hội Đồng cắt giảm mạnh mẽ thu nhập của nhà vua
làm hạ thấp sinh hoạt của vua và như vậy làm suy sụp uy tín của vương triều. Nhà vua cũng
cảm thấy khổ sở vì danh dự bị coi nhẹ khi bị buộc phải ngồi cạnh viên chủ tịch
Hội Đồng trong buổi Đại Lễ Toàn Quốc và bị chia cách với gia đình. Sau đó là việc
tái cơ cấu hàng giáo phẩm Công Giáo Pháp quốc và những đòi hỏi kế tiếp buộc giới
giáo sĩ phải tuyên thệ trung thành với Hiến Pháp mới, những biện pháp mà ông cảm
thấy bị cưỡng ép phải chấp nhận. Đặc biệt những nghị định vừa kể đã xé nát lương
tâm của một vị vua ngoan đạo, nhất là khi những nghị định này đã bị giáo hoàng
lên án vào mùa xuân 1791.
Đối với một vị
vua dòng dõi Bourbon, thừa kế một triều đại tuyệt đối nối kết chặt chẽ với giáo
hội Công Giáo chính thống và có truyền thống cai trị cả ngàn năm, chẳng có gì
nghi ngại đây là những lý do chính đáng. Thế nhưng đó có phải là những lý do thực
sự đưa tới việc trốn chạy của nhà vua không thì không chắc chắn. Thực ra, có
nhiều luật lệ mà Louis chống lại đã được phê chuẩn hơn một năm trước khi kế hoạch
đào tẩu bắt đầu hình thành. Ít nhất kể từ tháng Bảy 1789, và nhiều dịp khác sau
đó, các vị triều thần, các bộ trưởng và chính hoàng hậu đã khuyến khích Louis rút
lui vào một khoảng cách an toàn khỏi những đám đông nguy hiểm ở thủ đô và cần có
một đội quân trung thành luôn bên cạnh bảo
vệ, nhưng nhà vua luôn luôn từ chối những
kế hoạch đó. Vào những ngày tháng Mười, nhà vua từ chối việc di tản được tổ chức
chu đáo của Saint-Priest đi tới Rambouillet, khoảng 20 dặm ở ohía Tây Versailles.
Vào mùa xuân 1790 cũng thế, ông từ chối lời đề nghị đi trốn tới Compiègne hay một
nơi nào đó. Một phần cũng là vì vấn đề ông
thiếu quyết đoán. Dù vậy nhà vua dường như cũng lo lắng về những hậu quả về sự
trốn chạy đối với các thành viên khác trong gia đình. Đưá em út của nhà vua, hoàng
thân Artois đã đi lưu vong chẳng bao lâu sau biến cố Bastille và 2 bà cô già của vua, 2 cô con gái của vua Louis XV đã tìm cách đi hành
hương đến Rome vào đầu năm 1791. Nhưng đưá em gái Elizabeth và em trai của nhà
vua, hoàng thân Provence, vị vua Louis XVIII tương lai vẫn ở lại Paris. Dù bất
cứ gì, 2 thảm trạng bạo động hồi đầu năm
1791 đã trực tiếp tác động mạnh đến nhà
vua và hoàng gia ở cung điện Tuileries và dường như là then chốt trong việc làm
mạnh thêm quyết định đi trốn của Louis.
Những biến cố phức
tạp và khó hiểu trong ngày 28 tháng Hai đã
được châm ngòi từ một cuộc tấn công dân gian vào nhà tù Vincennes ở phía Đông
thành phố với tin đồn nó đang là một Bastille mới, bí mật giam giữ những nhà ái
quốc. Khi tướng Lafayette dẫn một đoàn quân vệ binh quốc gia lớn tới dẹp loạn, lại
có tin đồn mới lan toả rằng nhà vua bị bỏ rơi không người bảo vệ và tính mạng đang
bị nguy hiểm. Với những đe doạ bạo động gia tăng nhanh chóng, khoảng ba trăm đám
quý tộc trẻ cuồng tín sinh sống tại Paris, nhiều người trong số họ là thành viên
của toán quân bảo vệ hoàng cung giờ đã
phân rã, hay người của câu lạc bô bảo hoàng chạy bay tới
Tuileries bảo vệ nhà vua. Khi vào đến hoàng
cung, họ bắt đầu nhạo báng và sỉ nhục các vệ binh ái quốc mà họ gặp đang có mặt
trong cung. E sợ có một cuộc đối đầu đẫm máu, nhà vua bước ra can thiệp và kêu
gọi những người đến bảo vệ ông buông vũ khí và ra về bất bạo động. Nhưng ngay khi họ vừa tuân lệnh, nhiều người
bị đám vệ binh bao vây bắt giữ. Nhà vua
vô cùng giận dữ vì cảm thấy bị phản bội với một sự thoả thuận hai phía và sự sỉ
nhục cho danh dự của nhà vua. Nhà vua đã viết trong đêm đi trốn chạy: “Những thần
dân trung thành của Trẫm đã bị lôi ra khỏi cung một cách tàn bạo,” và còn riêng
nhà vua phải “uống cạn chén đắng đến những giọt cuối cùng”.
Đáng quan ngại
cho nhà vua và hoàng gia hơn nữa là những biến động hôm 18 tháng Tư 1791. Chuyện
bắt đầu với chương trình của hoàng gia trở về lâu đài Saint-Cloud để ăn mừng lễ
Phục Sinh. Một đám đông khổng lồ bên ngoài cổng phía Tây của cung điện
Tuileries để ngăn chặn chuyến đi. Đám đông sau đó còn được sự ủng hộ của nhiều
vệ binh quốc gia đến đáng lẽ để giúp giải toả cản đường. Người dân cho rằng nhà
vua muốn rời cung điện chỉ cốt tránh né những mục vụ cử hành lễ Phục Sinh bởi hàng
giáo sĩ theo Hiến Pháp phò Cách Mạng . Đám đông từ chối giải tán, và đám vệ
binh cũng từ chối tuân lệnh mặc cho chính tướng Lafeyette (chỉ huy của họ) yêu
cầu. Trong lúc xô xát, nhiều cận thần và triều thần của nhà vua bị bắt giữ và bị
hăm doạ treo cổ. Lần đầu tiên trong đời, nhà vua nghe trực tiếp lời chế giễu và
ngay cả có lời hăm doạ bị truất phế. Một lần nữa nhà vua trở nên cay đắng và giận
dữ. Có báo cáo ghi nhận nhà vua than thở: “Thật đáng kinh ngạc là sau khi đã
ban phát tự do cho đất nước, chính ta lại bị cướp đoạt hết mọi thứ tự do.” Cuối cùng, hoàng gia buộc phải xuống xe quay
trở vào cung điện , như vậy “bị buộc trở
về nơi nhà tù” của họ. Những nhà quan sát kỹ lưỡng cho rằng đặc biệt biến cố ngày
18 tháng Tư đã trở thành điểm then chốt làm cho nhà vua tin rằng sự nguy hiểm cho hoàng gia đang cận kề và như
vậy cần phải ra đi. Có lẽ nhà vua đã ám chỉ biến cố này khi ông giải thích hành
trình của hoàng gia cho anh chàng Sauce ở Varennes và sau đó cho Hội Đồng Quốc
Gia.
Nhưng 2 biến cố
đẫm máu ở cung điện vào cuối mùa Đông và đầu mùa Xuân lại có tác dụng khác. Sau ngày 28 tháng Hai, vệ binh quốc gia được
lệnh cấm đám quý tộc vào cung điện Tuileries cho dù ở đẳng cấp thứ bậc nào trừ
khi họ có những lý do cá nhân hay về quản trị cần tham khảo nhà vua. Biến cố 18
tháng Tư còn cho thấy một sự áp đặt hạn chế chặt chẽ hơn, xua đuổi hầu hết những
quý tộc cận thần thân cận nhất của nhà vua cũng như các giám mục và hàng giáo sĩ
khác của hoàng gia, những người từ chối lời tuyên thệ trung thành với hiến pháp
Cách Mạng. Mặc dù Louis và Marie không bao giờ gắn bó chặt chẽ với các nghi thức triều chính như các triều đại tiền
nhiệm, những xét xử của Cách Mạng đã đẩy họ gần hơn bao giờ hết trước sự ủng hộ
và đồng hành từ những người ủng hộ thuộc tầng lớp quý tộc của họ. Bây giờ, hoàng cung gần
như một nơi trống vắng. Một nơi đã từng có đầy sự vĩ đại của vương quốc mọi người
nam nữ bao quanh hoàng gia chan hoà ám áp với sự hiện diện của họ, lúc này chỉ
còn toàn đám vệ binh Cách Mạng và những toán hầu cận chỉ biết chúi mình vào bổn
phận. Đối với hoàng gia, sự huỷ bỏ chế độ
triều chính vào mùa xuân 1791 dường như là một cú đánh hung bạo và không cần
thiết, và hoàng gia tin rằng mục đích là để làm nhục và cô lập họ. Viên đại biểu
quý tộc Irland de Bazôges viết: “Từ chối Hoàng Thượng sự an ủi nhỏ nhặt nhất là
được ở bên cạnh những người quý trọng nhà vua. Chưa đủ hài lòng với việc giam lỏng
nhà vua, giờ bọn chúng lại muốn xua đuổi cả những người tôn kính và mong được
an ủi người.” Quả thực, trong bản tuyên bố để lại trước khi trốn chạy, vua
Louis đã phàn nàn cách riêng việc bị tước bỏ hầu như mọi tước vị của một vị vua.
Những biến cố bạo
động này có đẩy nhà vua đến quyết định trốn chạy cuối cùng không hay chỉ đơn giản
củng cố một quyết tâm trước đó, vào giữa tháng Tư 1791, dường như không còn có
thể quay ngược trở lại. Axel von Fersen viết về biến cố 18 tháng Tư: “Giờ mọi sự
đã quá rõ ràng cho nhà vua. Đây là thời điển hành động và hành động với hạn kỳ
hối hả.”
Kế hoạch đào tẩu
Kế hoạch mà hoàng
gia xử dụng vào tháng Sáu 1791 đã được hoạch định khoảng 9 tháng trước bởI vị giám mục Palmiers và nam tước Breteuil,
một vị cựu bộ trưởng bảo hoàng của nhà vua giờ đang sống lưu vong ở Thuỵ Sĩ. Kế hoạch đã thay đổi khác đi với những phác thảo ban đầu mà theo đó mục tiêu không những chỉ đưa nhà vua rời khỏi Paris đi
tới một nơi chốn an toàn như Rambouillet hay Rouen mà còn phải chắc chắn nhà
vua phải đi đến tận vùng biên giới nơi ông có thể có được sự ủng hộ hay ít ra có quân ngoại quốc
hỗ trợ. Giả thiết căn bản là một khi đã rời
thủ đô, cách xa bọn Jacobins và cái Hội Đồng Quốc Gia cấp tiến, nhà vua
sẽ có được khối kượng khổng lồ nhân dân đi theo hỗ trợ. Có được quân lính trung
thành ở chung quanh bảo vệ và sự hậu thuẫn của ngoại quốc, rồi dần dần những người
dân Pháp khác sẽ kéo nhau đến ủng hộ. Với vị thế hùng mạnh này, nhà vua sẽ có
thể tái thương lượng để sửa đổi lại Hiến Pháp và có cơ hội chấm dứt Cách Mạng.
Vào khoảng cuối
tháng Mười 1790, nhà vua đã đồng ý cứu xét tới một chương trình như vậy, ít ra
như một kế hoạch dự phòng và những kẻ chủ mưu đã bắt đầu xếp đặt kế hoạch chi
tiết. Ngay từ đầu, vị tướng tư lệnh vùng phía Đông Bắc nước Pháp có đại bản
doanh tại Metz, hầu tước Bouillé nhận lãnh trách nhiệm chuẩn bị tiếp đón nhà
vua ở vùng ranh giới. Việc đào tẩu từ
Paris và toàn bộ lộ trình được chính hoàng hậu đặt kế hoạch và trên hết là Von
Fersen. Mối liên hệ lâu dài giữa hoàng hậu và người bạn tình Thuỵ Điển đó lúc này
đã đạt tới một chiều hướng mới và cái âm mưu mà hai người hoạch định cũng mang
đầy vẻ tinh vi và xảo quyệt như bất cứ chuyện gì đã nảy sinh trong suốt cuộc Cách Mạng.
Đêm qua đêm, hết
mùa Đông sang tới mùa xuân 1791, ngay cả trước khi nhà vua chấp nhận ý tưởng,
Fersen và Marie đã bí mật gặp gỡ nhau trong cung điện để ráp nối một kế hoạch
được coi là một mắt xích khó thực hiện nhất trong toàn bộ âm mưu, đó là hành động
trốn ra khỏi điện Tuileries và cái thủ đô chật ních người đầy nghi ngờ đó. Mặc
dù vua Louis vẫn được tham khảo trong những quyết định chủ yếu và vẫn còn giữ được một số quyền phủ quyết, nhưng dường
như càng ngày nhà vua càng gia tăng việc uỷ quyền cho hoàng hậu. Theo như diễn
biến và trong trường hợp lạ thường này, Fersen bỗng trở nên một loại thủ tướng
ngoại vi chuyên lo việc nội bộ hoàng cung. Nhiều đêm trong tuần, anh chàng đi vào
hoàng cung, ngụy trang trong y phục của một thường dân với chiếc áo khoác có đuôi
và chiếc nón rộng vành của giai cấp bình dân. Lời tường thuật về quan hệ của
anh chàng với hoàng gia có lẽ không quá phóng đại. Abh ta viết cho bá tước
Taube, người bạn thân ở Thụy Điển: “ Không có tôi, việc đào tẩu của họ không thể xảy ra. Chỉ mình
tôi có sự tín cẩn nơi họ. Không một ai khác có đủ sự thận trọng mà họ dựa vào để
thực hiện một kế hoạch táo bạo như vậy.
Ngay từ lúc đầu,
Fersen đã thấy rõ rằng sự thành công của dự tính sẽ phụ thuộc vào hỗ trợ của quân
đội ngoại quốc. Việc chi tiêu tài chính của nhà vua rất có giới hạn, và vua cần
những số tiền lớn lao để chi trả cho lính đánh thuê và duy trì lối sống cần thiết
của hoàng gia cho đến khi tình thế trở lại bình thường. Kế hoạch cũng đòi hỏi
quân đội Áo có mặt tại biên giới với một
số lượng đủ lớn để phục vụ như một điểm tập trung đáng kể cho
mọi thành phần lực lượng bất mãn với những biến cố trong nước chú ý tới và tìm đến gia nhập. Nhưng những thương lượng kéo dài với
các chế độ ngoại bang, lúc đầu từ hoàng hậu đã tỏ ra thất bại nặng nề. Nhiều quốc
vương lân bang, cho dẫu có đồng cảm với
việc trốn chạy của hoàng gia đã tỏ ra ngần ngại, trừ phi những thế lực to lớn
khác đã đồng ý. Hoàng hậu đặc biệt thất vọng với người em ruột Leopold của bà, hoàng đế nước Áo lên kế vị sau cái chết của Joseph năm
1790. Chỉ mới hồi đầu tháng Sáu 1791,
Leopold đã hứa hỗ trợ đầy đủ tài chánh và
gửi quân tới giúp. Nhưng ngay như
vậy, vị hoàng đế cũng giải thích rằng sự
trợ giúp chỉ có sau khi nhà vua đã trốn thoát thành công và ở tình thế hành động độc lập. Một vị thế như vậy giúp
tang them sự khuyến khích cho việc đào tẩu nhưng lại làm cho việc hoạch định
trước khó khăn hơn .
Theo lộ trình của
cuộc đào tẩu, cả Bouillé và Ferseb đều cố nài hoàng gia di chuyển chia ra nhiều
nhóm và xử dụng loại xe nhỏ bé tầm thường để nhanh chóng bay tới biên giới. Đây
có lẽ là chiến lược mà người em của vua đã dùng
để trốn qua Brussels,nguỵ trang như một người nước Anh và cũng trốn
trong cùng một đêm với hoàng gia. Nhưng nhà vua và hoàng hậu quyết tâm từ chối
ra đi riêng rẽ và cả nếu không có 2 đứa con và công nương Elizabeth em gái nhà
vua. Phiền phức hơn nữa, hoàng hậu kiên
quyết mang theo hai nữ hầu cận. Rồi họ lại thêm vào hầu tước d’Agoult, một người
bạn thân của gia đình để làm hướng dẫn viên và phát ngôn nhân nếu có khó khăn xảy
ra và thêm ba sĩ quan quý tộc khác, nguỵ trang như người đánh xe để làm hộ vệ.
Với số lượng lên tới 11 người, đoàn người giờ quá đông để đi trên một chiếc xe.
Đối diện với những
đòi hỏi như trên, Fersen đã phải chùi đầu vào việc xếp đặt hành trình phức tạp đó
sao để toán người này được bí mật đưa tới biên giới. Để tạo nên một mặt trận hư cấu, tay sĩ quan Thuỵ Điển có đưọc sự hỗ
trợ của nữ bá tước Người Nga de Korff đang chuẩn bị rời nuớc Pháp với đứa con gái
vào tháng Sáu. Bà này tuyên bố rằng bà lỡ tay làm hư sổ thông hành của bà và yêu
cầu giới thẩm quyền cấp cho bà một sổ khác và nó được mang cho hoàng gia xử dụng.
Cũng chính bà là người cho đặt làm một cỗ xe với những bánh xe thật lớn và dàn
nhún vĩ đại để có thể đưa hoàng gia tới
vị trí an toàn. Người giám sát công việc đóng xe là một người bạn thân của bà,
không ai khác hơn là chàng Thuỵ Điển Fersen. Chiếc xe được kiến trúc đặc biệt cần
tới ba tháng để hoàn thành và tiêu tốn gần 6000 Phật Lăng, một món tiền khổng lồ
mà chỉ những ai giàu có nhất mới có thể
chi trả. Cỗ xe được sơn màu đen với khung màu vàng thật rộng rãi và thật xa xỉ,
thích hợp cho một vị vua nhưng có vẻ quá lố cho một hành trình bí mật. Phía
trong xe lót da và gấm, ghế ngồi lót đệm và có nhiều tầng để hành lý, đồ dùng dã
ngoại, già để rượu cùng dụng cụ sửa chữa khẩn cấp và còn có cả một bồn tiêu tiểu
lót da. Thêm vào đó là một cỗ xe nhỏ được chuẩn bĩ để chở 2 nữ quản gia.
Để đưa toàn bộ
11 người ra khỏi hoàng cung Tuileries đi vào những con đường bên ngoài thành phố, Fersen đã đặt kế hoạch từng
bước thật chính xác cho từng người, từng xe và cả các con ngựa với tất cả các
phương sách và sự tỉ mỉ như một quân lệnh
trong một trận chiến. Các kế hoạch được bố trí là dùng một dãy hành lang ít người
đi tới trong hoàng cung và những căn phòng bỏ trống, mà quan trọng nhất là một căn phòng ở
lầu trệt của tòa nhà có cửa mở thông thẳng ra bên ngoài sân triều. Đó là một căn
phòng của một hoàng tộc thân cận của vua đã được bỏ trống từ 18 tháng Tư và sẽ
được dùng như một căn phòng bí mật tập trung hoàng gia để trốn ra ngoài. Hoàng
hậu cũng cho làm một cánh cửa bên trong mở ra nối căn phòng với một cầu thang dẫn
tới phòng ngủ hoàng gia, được giải thích là để cho người nữ hầu cận nhất của bà
xử dụng. Nhiều căn phòng khác cũng được sửa chữa lại để bảo đảm dễ dàng đi tới
những con đường phía sau hơn và để ngăn cách các căn phòng của hoàng gia với những
phòng ngủ của các đầy tớ và lính gác ngay ở bên ngoài.
Đồng thời, hoàng
hậu và vài tỳ nữ hầu cận tín cẩn nhất lo xếp đặt các đồ nguỵ trang tương xứng với
gia đình “bá tước Nga de Korff” kể cả xiêm y cho vị thái tử 5 tuổi và bộ y phục của một thương gia cho nhà vua. Ngoài bộ y phục
đặc biệt này, nhà vua chỉ mang theo bộ vương y màu đỏ và vàng lộng lẫy đã từng
mặc trong hành trình đến Cherbourg vào 1786 với ý định sẽ mặc khi nắm quyền chỉ
huy quân đội trung thành của ông tại biên giới. Tuy nhiên, một vị hoàng hậu nước
Pháp thật khó để hy vọng bà chịu ăn mặc như một thường dân, và Marie đã rất đau
lòng để lén lút mang ra trước đó, không chỉ toàn bộ tủ xiêm y mà còn hầu hết đồ
trang sức, nhiều đồ đạc và đặc biệt một rương
chứa đầy đồ trang điểm phấn son. Bà đã dùng mọi hình thức bố trí, che đậy
và đủ loại lý do để giải thích. Không may là việc di dời những “nhu cầu” trang điểm
của hoàng hậu ra khỏi cung bị bắt gặp và đã dậy lên mối nghi ngờ trong lòng một
trong những tỳ nữ của bà, một người đàn bà vừa có tinh thần ái quốc vừa có chồng
là một sĩ quan thuộc vệ binh quốc gia.
Cuối cùng, hoàng gia phải hoãn lại hành trình đi trốn chậm hơn một ngày: trong ngày nghỉ phép của người tỳ nữ
trên.
Quả thực, nếu hoàng
gia hy vọng thoát ra ngoài không bị chú ý, điều cần yếu là họ đừng để Cách Mạng
để ý và nghi ngờ. Qua nửa năm đầu 1791 và đặc biệt sau ngày 18 tháng Tư, hoàng
gia đã khôn khéo đeo đuổi một chích sách
lừa gạt. Trong khi hoàng gia lên án Cách Mạng với những thông điệp bí mật gửi cho các lãnh đạo nước ngoài mỗi khi có dịp,
họ cũng làm mọi thứ trong quyền hạn có thể để ru ngủ những nhà ái quốc tin tưởng
rằng hoàng gia hoàn toàn ủng hộ Hội Đồng Cách Mạng. Vào ngày 19 tháng Tư, lần đầu tiên trong hơn một năm, vua
Louis tự thân chinh tìm đến Hội Đồng và
tái xác quyết chấp nhận tân Hiến Pháp. 4 ngày sau đó, nhà vua gửi tương tự một điệp
văn công khai tới các đại sứ Pháp ở nước ngoài. Không bao lâu sau đó, nhà vua và
hoàng hậu tham dự lễ Phục Sinh do các giáo sĩ tuyên thệ cử hành, mặc dù có sự
ghê tởm của nhà vua đối với giáo hội ly khai. Như Fersen giải thích cho
Breteuil, nhà vua chấp nhận hy sinh mọi thứ cho việc thực hiện kế hoạch đào thoát
của anh ta và cố che mắt những phần tử Cách Mạng để họ không để ý đến ý định thực sự
của nhà vua. Từ đó trở đi, nhà vua sẽ đưa ra một hình ảnh thừa nhận và hoàn toàn
ủng hộ Cách Mạng và các lãnh đạo Cách Mạng. Nhà vua sẽ hoàn toàn dựa vào lời
khuyên của họ và sẽ dự liệu những ý nguyện của đám đông để giữ họ nín lặng, đồng
thời sẽ kiến tạo một cảm giác tự tin cần thiết cho việc trốn chạy khỏi Paris.
Trong cùng thời
gian, tướng Bouillé cũng đi theo một phương cách đánh lạc hướng đám ái quốc địa
phương từ đại bản doanh của ông ta ở Metz, phía Đông cách Paris khoảng 180 dặm.
Bá tước Franҫois Bouillé, 52 tuổi, người nổi tiếng trong nước Pháp như một cựu chiến binh trong
trận chiến Bảy Năm và Cách Mạng Hoa Kỳ và là người hùng, hay tên vô lại, tuỳ
quan điểm của mỗi người, đã đè bẹp cuộc nổi loạn trước đó tại Nancy. Quả thực, đã có một số lãnh đạo chính trị Cách
Mạng đã đến gặp gỡ ông ta như một đồng minh tiềm năng. Nhưng từ khi vị Giám Mục
Pamiers mang đến cho ông ta một bức thư của nhà vua với yêu cầu hỗ trợ, ông đã
hết lòng phục vụ nhà vua. Sau chuyến thăm
viếng Metz của Fersen và sau khi đã gửi đứa con trai lớn và tuỳ viên quân sự tới
Paris, ông đã khai triển một kế hoạch tỉ mỉ cho hành trình của vua đến biên giới.
Nhiệm vụ trước
tiên và khó khăn nhất là việc chọn một vị trí vững chãi nơi nhà vua có thể rút
đến. Mặc dù lúc đầu Bouillé tính chọn Bensanҫon và Valeciennes, nhưng cuối cùng
ông chọn thành phố cổ nhỏ bé Montmédy ờ phía Tây Nam của Luxembourg. Đây không chỉ là một đồn luỹ dưới quyền chỉ
huy trực tiếp của ông, nó còn có một ưu thế về sự củng cố mạnh mẽ trực tiếp tới
vùng Tây Nam cũng như biên giới phía Bắc từ hướng Paris. Tuy nhiên, nhà vua sẽ
không ở trong thành luỹ đó vì lo mgại có thể bị kẹt trong một cuộc vây hãm, mà ông
sẽ ở trong lâu đài Thonnelle ngay ở phía Bắc Montmédy , cách biên giới nước Áo
chưa tới 2 dặm. Nói vắn tắt, nhà vua sẽ
có khoảng mười ngàn quân lính bảo vệ cả trong thành và những vị trí kế cận.
Đối với hành trình
trốn chạy của hoàng gia, Bouillé lúc đầu đề nghị con đường gần nhất qua Reims,
Vouziers và Stenay ở về mạn Bắc con đường nhà vua thực sự đi qua. Con đường này
không chỉ gần nhất, mà nó còn dẫn qua những khu vực đồng quê nghèo nàn và thưa
dân, gần như tránh khỏi nhửng cứ điểm của Cách Mạng. Thế nhưng Louis đã từng đi
qua một đoạn trên con đường này trong dịp đăng quang tại Rheims và nhà vua dường
nhưbị ám ảnh vì lo sợ rằng bọn Cách Mạng địa phương sẽ nhận ra ông. Cuối cùng, con đường
chếch xuống phía Nam được chọn đi ngang qua Montmirail, Châlons-sur-Marne,
Sainte-Mainehould và Clermont và cũng thận trọng tránh né Verdun, thành phố đặc
biệt nổi tiếng cực đoan. Một khi sáng kiến
đã được lựa chọn, Bouillé chọn Franҫois de Goguelat đi thăm dò nguyên con đường
dài 150 dặm bằng một hành trình đi khảo
sát dưới dạng một trong những người đánh xe đưa thư thông thường. 45 tuổi và được
huấn luyện trở thành một kỹ sư công binh và vẽ bản đồ, Goguelat là một người ủng
hộ chế độ quân vương đã từng là một tuỳ viên cá nhân của hoàng hậu. Bởi vì hoàng
gia cần phải di hành khẩn cấp và thay ngựa thường xuyên, Goguelat cũng phải ghi
chép lại từng vị trí đổi ngựa dọc hành trình. Tuy nhiên, sau khi qua khỏi
Clermont, lộ trình đi trốn sẽ phải hướng lên phía Bắc để tránh Verdun và rời khỏi
con đường hoàng gia hoạch định. Vì vậy, kế hoạch phải chuẩn bị sẵn ngựa mới lấy
từ chính trong hàng ngũ quân đội ở chặng cuối của lộ trình, đặt chúng vào một vị
trí tách biệt ngay ở phía ngoài thị trấn Varennes. Bởi vì những kẻ đưa ra kế hoạch
biết rất ít về tình hình chính trị tại Varennes, Goguelat đã lặng lẽ nhưng lại vụng
về đi thẩm vấn nhiều cư dân ở đó kể cả ông
phó thị trưởng Sauce và rồi tự kết luận rằng thị trấn này rất an toàn. Chính
Bouillé sẽ chờ đón cùng người ngựa tại điểm dừng chân thay ngựa cuối cùng ở
Dun, quá khỏi Varennes khoảng 15 dặm và một khoảng cách tương đương về phía Nam
Montmédy.
Việc quân sự hộ
tống nhà vua gây ra một vấn đề hệ trọng cho những người làm kế hoạch. Tất cả họ
đều mong có thể bảo vệ nhà vua ngay khi hoàng gia rời khỏi Paris, nhưng việc đưa
quân tới quá gần thủ đô thật nguy hiểm. Hơn nữa, nếu việc hộ tống quân sự được
xếp đặt quá sớm, điều này sẽ gây chú ý đặc biệt cho chuyến xe của hoàng
gia. Cuối cùng, với sự đồng ý của nhà
vua và hoàng hậu, họ quyết định chỉ gửi một toán quân kỵ binh nhỏ vài giờ trước khi hoàng gia đến. Nếu cần thiết, họ sẽ
giải thích cho cư dân địa phương rằng quân đội được gửi đi hộ tống một chuyến
xe chở lương phát cho quân lính. Một cách
tổng quát, sự phân chia đội ngũ như vậy đã được chỉ đạo là chỉ quan sát từ xa và đi theo
sau cỗ xe của hoàng gia, chỉ can thiệp
trực tiếp khi nào nhà vua bị nhận diện và xem ra sẽ gặp rắc rối. Ở mức độ nào
thì quân lính nên can thiệp hay không là một câu hỏi tế nhị cho toàn thể kế hoạch.
Ở đây, Bouillé buộc phải tuỳ thuộc vào sự tín nhiệm của đám sĩ quan trẻ, nhiều
người trong họ chỉ được thông báo việc
nhà vua đến vào giây phút cuối cùng.
Sau một số tranh
cãi, họ quyết định thiết lập lữ đoàn hộ tống đi xa nhất ở gần điểm đổi ngựa
Somme-Vesle, một làng ngay phía Đông Châlons. Trong số những nhiệm vụ khác là
viên chỉ huy của lữ đoàn này phải cử người liên lạc đi tới những phân đội ở xa
dọc theo lộ trình ngay sau khi cỗ xe hoàng gia vừa đi qua. Cũng quan trọng không kém là anh ta phải để lại
một lính gác trên con đường mà nhà vua vừa
đi qua để chặn hết tất cả những tay sứ
giả từ Paris tới để truyền đi lời báo động. Tìm người để chỉ huy vị trí trọng yếu này, Bouillé đã có
một lựa chọn kỳ lạ là quận công Claude-Antoine-Gabriel de Choiseu-Stainville, một
người chỉ mới ba mươi và thiếu kinh nghiệm. Mặc dù mọi người ai cũng biết sự trung thành của
Choiseul và gia thế quý tộc của anh ta, cả Fersen và hoàng hậu lại lo ngại về cái
tính tình dở dở ương ương của anh chàng và thúc giục vị tướng tìm người khác
thay thế. Trong một lá thư gửi đi, Fersen
có nhắc đến anh ta như một tay trẻ
tuổi gàn dở.
Dù vậy, Bouillé không
quá lo lắng về các viên sĩ quan của ông bằng sự trung thành của đám lính dưới
quyền chỉ huy của họ. Trong suốt mùa Đông
và mùa Xuân 1791, các câu lạc bộ ái quốc địa phương đã mạnh mẽ tuyển mộ đám
binh lính Pháp đồn trú trong địa bàn của họ và gây nghi ngờ về sự trung thành và
động cơ của các viên sĩ quan chỉ huy, những sĩ quan mà hầu như không có ngoại lệ
là thành viên của giới thượng lưu đang ngày càng bị mất tín nhiệm. Chỉ huy các
cấp khắp nơi nhìn vô vọng vào cấp dưới của họ mỗi ngày mỗi trở nên ngỗ mghịch và
vô kỷ luật hơn, đôi khi họ tuyên bố thẳng ý định của họ chỉ tuân theo lệnh lạc
nếu chính họ chấp thuận. Với những điều kiện như thế, Bouillé cảm thấy không còn
lựa chọn nào khác ngoại trử việc xử dụng đám lính đánh thuê ngoại quốc. Ông kêu
nài nhà vua cấp kinh phí để bảo đảm đám quân Thuỵ Sĩ và Đức quốc được trả thù
lao cao và số tiền ngoại hạng đó cần có ngay khi cần đến. Fersen và hoàng hậu đã
cố nạo vét được gần một triệu phật Lăng, đa số đến từ khối tài sản của Fersen mà
họ đã liều lĩnh chuyển đến Metz gói gọn
trong những cây vải lụa. Kế hoạch lại có nguy cơ hơn nữa vào mùa xuân khi vị tân
bộ trưởng chiến tranh ủng hộ Cách Mạng
chuyển đổi một số toán quân ngoại quốc giỏi nhất của viên tướng quai vùng khác.
Nhưng Bouillé cũng
quan tâm đến độ tin cậy của chính nhà vua. Việc đưa hầu tước D’Agoult vào trong
đoàn người đào tẩu được đặt ra để bù vào lỗ hổng thiếu kinh nghiệm du hành của nhà vua. Nhưng cuối cùng, hoàng
gia đã bỏ lại d’Agoult để lấy chỗ cho phu nhân de Tourzel người nữ quản gia,
người kiên quyết cho là nhiệm vụ của bà phải đi theo đoàn ngay khi bà biết được
kế hoạch trốn chạy. Bouillé cũng bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ rằng nhà vua sẽ không
bao giờ có đủ cương quyết và sự bền bỉ để theo đuổi kế hoạch táo bạo này đến tận
cùng, mà có thể nhà vua sẽ rút lui ở thời điểm cuối cùng, làm cho những người âm
mưu đặt kế hoạch không được bảo vệ và có nguy cơ bị bắt giữ vì tội phản quốc. Những nỗi lo sợ như thế càng tăng thêm qua việc
nhà vua cứ hoãn tới hoãn lui ngày giờ khởi sự. Lịch trình đầu tiên được ấn định
vào cuối tháng Năm, rồi đầu tháng Sáu, cuộc đào tẩu cứ dời lại liên tục từ ngày 12 đến 15 rồi lại 19 tháng Sáu. Khốn khổ hơn nữa,, mãi cho tới hôm 15 tháng Sáu,
Bouillé mới biết được hoàng gia lại dời lại qua ngày 20. Vào thời điểm này, mọi
lệnh lạc chỉ thị của viên tướng đã được ban ra và các toán quân của ông đã đi vào
vị trí. Những thay đổi lệnh cần thiết, chắp vá vào với nhau ở giây phút
cuối đã gây ra nhiều lỗi lầm nho nhỏ và
những mâu thuẫn trong đó đã tác hại đáng
kể đến việc thành bại của công việc. Có lẽ chuyện nghiêm trọng nhất là một số cánh
quân kỵ binh sẽ phải đóng quân ngoài trời thêm một ngày trong các thành phố dọc
theo lộ trình, dấy lên những nghi ngại và lo lắng cho cư dân trong vùng.
Mặc dù cuộc trốn
chạy của nhà vua được nghiên cứu cặn kẽ tí mỉ, có một điều ít được chú ý tới là
việc nhà vua sẽ làm gì khi tới được Montmédy. Bouillé tuyên bố rằng ông ta không
được cho biết về ý định của vua. Louis có thể sẽ thiết lập một chính phủ lâm thời
với vị cựu bộ trưởng bảo hoàng của vua bá tước Breteuil làm thủ tướng. Breteuil được yêu cầu soạn thảo
một bản chính sách từ Thuỵ Sĩ nơi đang sống lưu vong và sẽ về làm việc với nhà
vua ở Montmédy trong thời hạn sớm nhất. Thế nhưng bản soạn thảo, được gửi trước tới
Luxembourg để giao lại cho nhà vua đã không được mở ra và đã bị phá huỷ. Xét đoán từ lời lẽ trong thư để lại trên bàn
làm việc trước lúc ra đi và từ bài diễn văn đọc ngày 23 tháng Sáu 1789 mà lời lẽ
trong thư có nhắc tới, có lẽ nhà vua cũng vẫn duy trì Hội Đồng Quốc Gia. Tuy
nhiên, nhà vua liên hệ đến hội đồng với cái tên “Đại biểu thường trực toàn dân”
và nhà vua cũng đề nghị giai cấp quý tộc phải đóng vai trò thống trị trong cái
hội đồng đó và lấy lại tất cả các đặc
quyền trước đó. Nói một cách khác, nhà vua có ý chỉ rằng sẽ tháo bỏ hầu hết mọi
lãnh vực Cách Mạng, lấy lại hầu hết vương quyền trước đó, huỷ bỏ tân Hiến Pháp
về giới giáo sĩ, hoàn trả tài sản của giáo hội đã bị Cách Mạng tịch thu và khước từ mọi luật lệ ban hành kể từ tháng Mười
1789. Trong sự suy nghĩ của Louis, công cuộc phản cách mạng này sẽ là một sự thương
lượng hoà bỉnh giữa vị vua nhân từ và những thần dân bướng bỉnh mà nhà vua hứa
sẽ tha thứ cho tất cả những sự sỉ nhục mà vua đã gánh chịu. Khi tình hình đã bình
lặng, nhà vua sẽ từ thành luỹ biên giới trở về và sẽ chọn một nơi cu trú có một
khoảng cách an toàn từ Paris, có thể là lâu đài Compiègne cách thủ đô cũ khoảng 75 dặm về phía Bắc .
Đánh cược
Nhưng các thần dân
của vua có ngoan ngoãn chấp nhận phương cách mà vua Louis đề nghị không? Căn cứ
vào phản ứng của họ trong những ngày sau cuộc trốn chạy đó thì dường như đa số
dân chúng sẽ không chấp nhận. Thật khó
tưởng tượng rằng nếu cuộc trốn chạy của nhà vua thành công sẽ không dẫn đến nội
chiến. Cả hoàng hậu và tướng Bouillé đều dự đoán như thế. Hơn nữa, hai người cũng
giả thiết rằng có lẽ vì an toàn bản thân, vua Louis sẽ phải sớm di chuyển qua vùng lãnh thổ nước Áo , và họ đã
có kế hoạch để thuyết phục nhà vua làm điều đó.
Mặc dù ý định từ lâu của nhà vua là ở lại trong vương quốc của mình, ông
cũng chắc chắn sẽ phải băng qua biên giới
vào lãnh thổ nước ngoài , nơi chỉ cách một đoạn đường ngắn, một khi có chứng cứ
rõ ràng gia đình gặp nguy hiểm. Và một khi những người ở quanh ông và biết rõ cách làm sao điều khiển
nhà vua bắt đầu tạo sức ép. Mặc dù Louis có thể tưởng tượng rằng ông hành
động chỉ vì lợi ích của nhân dân, nhưng hầu như chắc chắn cuộc trốn chạy thành
công dấy lên một cuộc nội chiến toàn diện
và có thể có luôn một cuộc chiến tranh
quốc tế với viễn ảnh một sự chịu đựng đau khổ cho những người mà vua gọi là thần
tử của ông.
Mercy-Argenteuil,
viên đại sứ Áo quốc không nghi ngờ gì về điểm này. Trong một loại các lá thư viết
cho hoàng hậu vào mùa Đông và mùa Xuân, Mercy đã van nài hoàng hậu suy nghĩ về
những hậu quả của cuộc trốn chạy và điều gì sẽ xảy ra nếu kế hoạch thất bại. Mercy
lý luận rằng nhà vua và hoàng hậu đã đánh giá thấp khả năng ủng hộ rất phổ biến
của công chúng cho Cách Mạng. “Chạy trốn vào thời điểm này là không thể nào. Tại mỗi ngôi làng đều có thể có những trở ngại
mà hoàng gia không thể vượt qua. Thần thật run sợ khi nghĩ đến cái thảm hoạ xảy
đến nếu như kế hoạch thất bại.” Ông ta
hiểu rằng tình thế lúc này thật đáng thất vọng và nhà vua đã mất hầu hết quyền
hành trước đó. Viên đại sứ cho rằng hoàng gia hãy chờ cơn bão đi qua như vậy sẽ
tốt hơn: “Nếu điện hạ chịu khó kiên trì một chút, điện hạ sẽ thấy sớm hay muộn,
cái trò kiến tạo điên rồ của Cách Mạng sẽ tự sụp đổ mà thôi. Ngược lại, nếu cứ
chọn cách giải quyết cực đoan, (đó là chạy trốn) sẽ mang lại quyết định chưa biết
là tốt hay xấu đến vận mạng của nhà vua và cả vương quyền
Nếu nhà vua cố tình
trốn chạy, đây sẽ là một vụ đánh cược. Và
quả thực tiền cá cược rất cao. Thành công có thể
có nghĩa là nội chiến. Thất bại sẽ
mang lại thảm hoạ và có lẽ một kết thúc của
thể chế quân chủ.
No comments:
Post a Comment